
CHỈNH SỬA VĂN BẢN - CHUYỂN ĐỔI FONT CHỮ - LÊN MỤC LỤC - DOWLOAD TÀI LIỆU TRÊN CÁC WEBSITE NHƯ: 123doc, xemtailieu, tailieu.vn ... HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. TẬN TÂM ĐEM LẠI LỢI ÍCH LỚN NHẤT CHO KHÁCH HÀNG
Saturday, July 2, 2016
TÌM HIỂU nền KINH tế NHẬT bản HIỆN NAY
Yên được tăng giá từ chỗ 1USD=360Yên đến 1USD=308Yên. Tuy nhiên,
sự tăng giá này không đem lại nhiều hiệu quả.
2. Về đầu tư ra nước ngoài
Khoảng năm 1953-1954, Nhật Bản đã phục hồi nền kinh tế, đạt mức
trước chiến tranh. Cũng từ đó đến khoảng đầu thập kỷ 60, kinh tế Nhật Bản
luôn phải đương đầu với nạn thâm hụt kinh niên trong cán cân buôn bán,
thất nghiệp, lạm phát cao. Do đó, không có tiền để đầu tư ra nước ngoài.
Bước vào thập kỷ 60, đầu tư ra nước ngoài liên tục phát triển, từ bình quân
hàng năm 130 triệu đôla (1963-1965), 90triệu đôla năm 1970 đã tăng lên
3,5 tỉ đôla năm 1973.
Thị trường đầu tư cũng có sự thay đổi. Trước đây, Nhật Bản chỉ chú
trọng đầu tư vào Mỹ nhưng về sau đã chú trọng hơn đến các thị trường
khác như Châu Á. Trong tổng số tiền đầu tư giai đoạn 1951-1960, khu vực
Bắc Mỹ chiếm 40%, khu vực Trung Nam Mỹ 37%, Châu Á 21%, Châu Âu
1,5% và châu Đại Dương chiếm 0,9% Trong thời kỳ 1961-1965, đầu tư ra
nước ngoài của Nhật Bản vào khu vức Trung Nam Mỹ và châu Á tăng
nhanh chiếm 28%, Mỹ chiếm 26% và châu Âu chiếm 4%...
Tóm lại, thời kỳ 1952-1973 là thời kỳ phát triển rất nhanh của nền kinh tế
Nhật Bản. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng gặp khó khăn và biến động.
Từ năm 1951 đến năm 1973 đã có tất cả 7 thời kỳ ổn định và 8 lần suy
thoái. Sự tăng trưởng cao độ luôn đi liền với lạm phát kéo dài. Nhưng dù
sao đây cũng là giai đoạn Nhật Bản phát triển thần kỳ với tốc độ chưa từng
có. Nó đã góp phần khôi phục kinh tế sau chiến tranh và đưa Nhật Bản trở
thành một cường quốc kinh tế trên thế giới.
Chương 2: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN “THẦN
KỲ” CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN
I. PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
Trước hết, chế độ giáo dục ở Nhật bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế
thừa nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai,
Nhật Bản đã khổ cập giáo dục hệ 9 năm. Người Nhật rất chú trọng đào tạo
đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ
thuật, công nghệ mới. Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường
dạy nghề mà có thể đào tạo ngay trong các xí nghiệp.
Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, chất
lượng cao đã góp phần vào sự phát triển nhảy vọt về kinh tế và công nghệ
của đất nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật được đánh giá là những
người sắc xảo, nhạy bén trong việc nẵm bắt thị trường, đổi mới phương
pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên thị
trường quốc tế.
Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo đạo lý của đạo Khổng. Trong
thời kỳ hiện đại, những đức tính cần kiệm, kiên trì, trung thành, tính phục
tùng...vẫn được đề cao. Nghiên cứu “tính cách Nhật Bản”, các nhà nghiên
cứu phương Tây đánh giá đây là một nhân tố chủ yếu dẫn đến sự thành
công trong sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.
1/ Tính truyền thống:
Truyền thống Nhật Bản luôn luôn được kế thừa và phát triển cả trong
nếp nghĩ, hành vi của mỗi công dân. Họ trân trọng những di sản tinh thần
được gìn giữ từ ngàn xưa. Truyền thống đã hình thành, ổn định và càng
củng cố trên cơ sở thừa kế và phát triển. Trân trọng các di sản văn hoá của
quá khứ, người Nhật bảo lưu những tinh hoa của mình đã bám rễ trong
cuộc sống.
2/ Tinh thần cộng đồng:
Tinh thần cộng đồng ở Nhật Bản có đặc điểm là nó tạo ra một trật tự
thứ bậc. Ý thức tôn trọng thứ bậc đã có từ lâu trong đời sống người Nhật.
Sự phụ thuộc vào thủ lĩnh, lòng kính trọng các bậc cao niên gần như một
biểu tượng tôn giáo.
Tâm lý cộng đồng được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ và được thể
hiện như một triết lý của con người trong lao động và trong sinh hoạt. Tập
thể đóng vai trò quan trọng trong đời sống người Nhật. Để đạt đến sự nhất
trí trong công việc người Nhật thường gạt bỏ cái tôi lại để đề cao cái chung,
tìm sự hoà hợp giữa mình và những thành viên khác trong một tập thể. Tinh
thần cộng đồng còn được thể hiện ở sự bình đẳng, chan hoà giữa những
người quản lý và các nhân viên công ty. Tinh thần cộng đồng đã và đang là
tiềm năng to lớn của dân tộc Nhật Bản.
3/ Lòng trung thành:
Người Nhật Bản luôn đề cao tuyệt đối lòng trung thành.Trong quá
trình sản xuất, lòng trung thành đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, góp phần
không nhỏ vào sự phát triển kỳ diệu của nền kinh tế Nhật Bản ngày nay.
Lòng trung thành được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thái độ làm việc: Mọi người dốc sức dốc lòng, nghiên cứu lao động để
đạt được kết quả cao nhất. Họ luôn lấy mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước đặt lên hàng đầu
+ Tính nhẫn nại: Mặc dù tính nhẫn nại không phải của riêng nhân dân Nhật
Bản song dường như nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người nơi
đây. Người ta cho rằng khả năng học tập và quyết tâm làm việc của người
Nhật là do đặc tính này.
+ Tính tiết kiệm: Đầu những năm 60, khi thu nhập theo đầu người ở Nhật
Bản còn thấp, họ đã có ý thức tiết kiệm dù là những cái nhỏ nhất trong đời
sống để tăng thêm phần tiết kiệm cho đất nước.
+ Người lao động luôn sẵn sàng gắn bó cả cuộc đời với công việc, với xí
nghiệp. Người Nhật nổi tiếng làm việc cần mẫn, xem công ty như gia đình
của mình. Họ chia sẻ những khó khăn, những thăng trầm của nó dù ở đó họ
chỉ là người làm thuê.
4/ Tính hiếu học:
Nhật Bản luôn đầu tư tối đa cho giáo dục. Số lượng sinh viên, các
nhà khoa học của Nhật được cử ra nước ngoài học tập và nghiên cứu cao
nhất nhì thế giới. Con người Nhật học với phương châm: “Học hỏi phương
tây, bắt kịp phương tây và vượt phương tây”. Chính vì vậy, Nhật Bản luôn
tìm được những hướng đi đúng đắn.
5/ Tính sáng tạo:
Tính sáng tạo là một phẩm chất gắn liền với lòng ham mê lao động
của người Nhật Bản. Đức tính này đòi hỏi một cách tư duy tích cực, một óc
tưởng tượng phong phú. Ở Nhật Bản, các nhà quản lý luôn tôn trọng ý kiến
của công nhân.Ngay cả những ngành sản xuất ra đời sau và phát triển
chậm, Nhật Bản cũng nhanh chóng vượt hẳn các nước có truyền thống để
chiếm lĩnh vị trí hàng đầu thế giới cả về số lượng và chất lượng.
6/ Lòng ham mê lao động:
Ở Nhật Bản, tinh thần tự giác, hăng say lao động luôn được đề cao.
Người Nhật ý thức sâu sắc rằng nhờ lao động mà con người và xã hội mới
tồn tại và phát triển. Họ luôn làm việc hết mình, tất cả phục vụ sự phát triển
kinh tế của đất nước. Với lòng ham mê như thế, người Nhật đã làm cho nền
kinh tế phát triển tới mức cả thế giới phải khâm phục và học hỏi.
II. DUY TRÌ MỨC TÍCH LUỸ CAO THƯỜNG XUYÊN, SỬ DỤNG
VỐN CÓ HIỆU QUẢ
Với nền kinh tế Nhật Bản thì việc tích luỹ và sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả là một nguyên nhân quan trọng và gần như quyết định đến tăng
trưởng kinh tế.
1. Xét quá trình tích luỹ vốn
a)
Vốn trong nước
Những giải pháp tốt, chính sách đúng đắnđể duy trì mức tích luỹ cao của
Nhật Bản là:
Tận dung triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương
thấp, tiền thưởng.Tiền lương của công nhân Nhật Bản trong những năm 5060 rất thấp so với các nước tư bản phát triển. Trong các xí nghiệp lớn thì
tiền lương công nhân Nhật Bản chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nnhân
Anh và Bằng 1/7 của Mỹ. Mặt khác, chế độ tiền lương và tiền thưởng cũng
được vận dụng hết sức linh hoạt dưới nhiều mức lương và chênh lệch tiền
lương tương đối khác nhau. Hình thức này đã động viên khuyến khích
người lao động đông thời tiết kiệm triệt để chi phí sản xuất nhằm hạ giá
thành sản phẩm. Từ đó, là cơ sở để tạo nên tích luỹ vốn cao hơn của các
nhà tư bản.
Bên cạnh mức tiền lương thì các nhà tư bản ở Nhật còn phân ra các hình
thức thuê mướn công nhân khác nhau để trả lương. Có hình thức những
người làm việc không thường xuyên và hình thức công nhân được thuê
mướn suốt đời. Hình thức công nhân được thuê mướn suốt đời nghĩa là
người lao động được nhận vào làm việc trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình, tiền công của anh ta được tăng không phụ thuộc vào năng suất lao
động theo sự trung thành của anh ta với công ty. Như vậy người lao động
hoàn toàn bị trói chặt vào xí nghiệp. Anh ta có được công ăn việc làm
thường xuyên và đảm bảo mọi quyền lợi cho dù công ty đó có phát đạt
không. Đây là một hình thức độc đáo của nền kinh tế Nhật Bản.Với những
người lao động không thường xuyên nghĩa là làm tại nhà, lao động “thời
vụ”, làm công trong các gia đình. Đây là những người lao động nông
nghiệp, buộc phải có hoạt động phụ trợ. Theo thống kê Nhật Bản cho thấy
5,4 triệu gia đình nông dân chỉ có 1,1 triệu sống hoàn toàn bằng nghề nông.
Chế độ trả lương là một trong những nét đặc trưng của chế độ thù lao
của các công ty Nhật Bản, được trả hai lần trong năm dưới hình thức gia
tăng. Chế độ này rất có lợi cho các công ty vì nó là thứ lương trả chậm, cho
phép các công ty có thể sử dụng số tiền đó cho đến khi trả tiền thưởng.
Đứng trên quan điểm quốc gia, tiền thưởng được xem như một nhân
tố chủ yếu khiến cho cả gia đình Nhật giành được một tỷ lệ tiết kiệm
cao.Về mặt quản lý công ty, chế độ tiền thưởng là một hình thức trả tiền tuỳ
thuộc vào thành tựu thích đáng liên tục của công ty về mặt tài chính. Như
vậy chế độ trả lương và chế độ trả thưởng là những nét đặc trưng của kinh
tế Nhật Bản. Chính nó đã tạo ra nguồn vốn hết sức quan trọng cho tu bản
độc quyền Nhật Bản sử dụng để tái sản xuất mở rộng hay là nhân tố quan
trọng nhất để đạt mức tích luỹ vốn cao và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức
cạnh tranh trên thị trường.
Để tạo vốn cho quá trình phát triển kinh tế , Nhật Bản đã chú ý khai
thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá nhân. Ở Nhật Bản, mỗi gia đình đều
gửi tiết kiệm, tham gia bảo hiểm hoặc cũng có nhiều gia đình còn giành
tiền mua quốc trái và trái phiếu do công ty phát hành. Tính chung cứ năm
gia đình thì có một gia đình dành tiền và hiện đang có cổ phần.
Theo thống kê từ năm 1961 đến năm 1967 tỷ lệ gửi tiết kiệm trong
thu nhập quốc dân là 18.6%, cao hơn gấp hai lần của Mỹ (6.2%) và Anh
(7.7%). Năm 1968 đến năm 1969 tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157.5 tỷ
USD. Tính trung bình mỗi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là 1.55 USD.
Vậy nguyên nhân nào đã tạo nên hiện tượng đặc biệt này?

Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment