Wednesday, May 11, 2016

tìm hiểu môn học kinh tế vĩ mô

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 Chương 1 đã hệ thống hóa một cái nhìn tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô, cụ thể như: - Hạch toán thu nhập quốc dân Lạm phát- thất nghiệp Chính sách tài chính Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ Thương mại quốc tế Tăng trưởng kinh tế Đó là cơ sở giúp cho việc phân tích ở chương 2 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua 2.1.1. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Một trong những yếu tố cơ bản để đánh giá sự ổn định của nền kinh tế là vấn đề lạm phát được tính trên sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng. Theo đánh giá của cục thống kê DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2011 Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Lạm phát của nước ta trong quý I đầu năm nay tăng rất cao,nhưng từ quý 2 tới nay chỉ số giá đều giảm chỉ tăng nhẹ vào tháng 7. Điều này chứng tỏ những chính sách tiền tệ với những điều chỉnh khá linh hoạt của Ngân Hàng nhà nước mà chính phủ áp dụng đã có hiệu quả. Theo dự báo thì CPI của tháng 11 sẽ tăng tương đương với tháng 10. Lạm phát tăng làm cho đời sống của người dân gặp khó khăn hơn, các doanh nghiệp thì lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang cố gắng để không phải rơi vào tình trạng phá sản Trong điều kiện kinh tế thế giới và VN hiện nay, lạm phát tăng nhanh ở VN có thể giải thích bởi các lý do như: Thứ nhất, do leo thang giá cả các mặt hàng tiêu dùng. Sự tăng mạnh nhu cầu ở các nước đang phát triển nói chung và VN nói riêng trong khi cung ứng suy giảm do tác động của sự sụt giảm nền kinh tế thế giới. Thứ hai, do su thế leo thang của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của đồng USD. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có cán cân thanh toán và dự trữ phụ thuộc nhiều vào đồng đôla, sự mất giá của USD tác động trực tiếp đến giá cả nội địa. Thực tế cho thấy , khi giá đôla giảm đã khiễn cho giá dầu tăng kỷ lục đưa xu thế tăng giá chung ở hầu hết các quốc gia không có chính sách kìm chế giá. Thứ ba, do hạn chế nguồn tín dụng sản xuất. Những tháng qua, ngân hàng nhà nước liên tục thay đổi lãi suất, yêu cầu ngân hàng nhà nước phải mua lại trái phiếu nhà nước… trên thực tế đây là biện pháp nhằm làm giảm dòng tiền tệ lưu thông và kiềm chế việc tăng giá. Tuy nhiên, việc làm này có hại nhiều hơn là có lợi. Lý do là, khi giảm lãi suất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ gia tăng rất khó kiểm soát với tỷ giá hối đoái thả nổi như hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng để cho vay vốn đầu tư như vậy lượng tiền vẫn tăng nhanh, lạm phát tăng là điều tất nhiên. Thứ tư, do trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...). Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư. Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010). Sự ra tăng lạm phát ở VN hiện nay không xuất phát từ việc mất cân đối trong cấu trúc của nền kinh tế, mà là kết quả của sự suy thoái kinh tế toàn cầu và sự tăng giá xăng dầu và các mặt hàng lương thực. 2.2. Nhận xét tác động của lạm phát tới nền kinh tế 2.2.1. Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất Trước áp lực lạm phát, các doanh nghiệp gặp khó khăn toàn diện trên mọi mặt như: áp lực về giá cả nguyên liệu, tiếp cận nguồn vốn khi nhà nước sắt chặt tiền tệ, sức mua của người dân giảm. đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh tồn tại một cách cầm cự, hoặc thực chất “khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam đóng cửa được rồi”. 2.2.2 Tác động hoạt động của ngân hàng Lạm phát làm cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng của mình chạy qua ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động. Nhưng nâng bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Cuộc chạy đua lãi suất huy động của các ngân hàng làm cho lãi suất tăng cao lên tới 17-18% năm, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần lãi suất tín dụng, kinh doanh lỗ lớn nhưng vẫn phải thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao, ngân hàng nhà nước buộc phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi. 2.2.3 Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân Nguyên nhân dẫn tới lạm phát tăng cao là do chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục. Làm cho đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người làm công ăn lương có mức lương cố định, giá cả tăng cao làm cho chi tiêu trong gia đình tăng lên. Với mức thu nhập hàng tháng của nhiều người bây giờ không đủ trang trải cho cuộc sống, tuy nhà nước đã quyết định tăng lương nhưng mức lương tăng không đủ đáp ứng cho mức tăng giá. Những bà nội chợ sẽ giảm bớt khẩu phần trong mỗi bữa ăn xuống, hạn chế tối đa việc mua sắm cho gia đình, sinh viên gặp khó khăn trong việc tiêu dùng hàng ngày và tiền đóng học phí…. Họ không đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, làm cho người nghèo đã nghèo lại càng nghèo hơn. Lạm phát cũng có tác động khác nhau tới những người tiêu dụng có thu nhập khác nhau( người có thu nhập cao, người thu nhập thấp) và cách thức chi tiêu cũng khác nhau. Thay vì những người có thu nhập cao khi không lạm phát người ta sẽ nghĩ đến việc mua ô tô, đi du lịch, ăn nhà hàng… nhưng trong tình trạng lạm phát thì người ta lại dốc hết cho ăn uống và một chút cho việc mua sắm quần áo. Tuy nhà nước có chính sách bình ổn giá nhằm giúp những người thu nhập thấp giảm bớt gánh nặng trong việc chi tiêu nhưng thực tế điều đó đã đi ngược, người thu nhập thấp không được hưởng mà những người thu nhập cao lại được hưởng nhiều hơn. 2.3. Một số giải pháp nhằm kiếm chế lạm phát tại Việt Nam Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với chủ chương dân giàu nước mạnh của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, thì vấn đề chống lạm phát và kiềm chế lạm phát ở con số hợp lý luôn là bài toán khó đối với nhà nước ta. Mặc dù trong những năm trở lại đây các biện pháp kiềm chế lạm phát luôn được áp dụng một cách khá hiệu quả nhưng nguy cơ tái lạm phát vẫn ở mức cao. Để kiềm chế và kiểm soát lạm phát có hiệu quả cần áp dụng đồng bộ các biện pháp như: Đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất và lưu thông, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, tăng nguồn vốn dự trữ, tạo sự cân đối trong nền kinh tế,... Đồng thời phải đẩy mạnh cơ chế quản lý của nhà nước trong việc kiểm soát thị trường. Vậy để kiềm chế lạm phát cần thực hiện các giải pháp sau: Trước mắt, chúng ta nên ổn định giá cả: do sự không công bằng, lo lắng và những mất mát thực tế do lạm phát gây ra thì đây chính là một biện pháp đúng đắn. Mục tiêu này giữ cho tỷ lệ lạm phát và mục tiêu việc làm ở một mức độ phù hợp. Tăng cường giám sát và quản lý việc bình ổn giá cả thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Theo dự báo, thị trường hàng hóa các tháng còn lại của năm 2011 có thể diễn biến phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó đáng chú ý là áp lực lạm phát đang nổi lên, nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Tình hình sản xuất kinh doanh tiếp tục khó khăn do mặt bằng lãi suất còn cao, chi phí đầu vào cao... Dự kiến tổng mức bán lẻ năm 2011 tăng khoảng 22% so với năm 2010, đạt 1.880 nghìn tỷ đồng. Để thực hiện mục tiêu khống chế mức tăng giá năm 2011 khoảng 18%, trong những tháng tới, nhiệm vụ điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường giá cả sẽ còn nặng nề và phức tạp. Vì vậy, Bộ Công thương cho rằng cần triển khai thực hiện các giải pháp như: Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu hàng hóa, giá cả, thị trường; chủ động và linh hoạt có các biện pháp điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường nhằm bảo đảm sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá, góp phần kiềm chế lạm phát. Bên cạnh đó là tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nội địa để góp phần bình ổn thị trường; phối hợp với Liên minh Hợp tác xã trong việc tiêu thụ hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp. Tăng cường kiểm soát thị trường, đảm bảo cung ứng tốt những mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, phân bón, sắt thép, giấy in, xi măng, gạo, dược phẩm...; đồng thời, xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, gian lận thương mại, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thứ hai, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm lượng tiền giấy lưu thông trong nền kinh tế như ngừng việc phát hành tiền. Biện pháp này gọi là đóng băng tiền tệ. Nhà nước không nên phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, mà cần áp dụng các biện pháp như: phát hành trái phiếu chính phủ, tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm của người dân nhằm thu hút lượng lớn tiền nhàn rỗi của dân chúng trong một thời gian ngắn. Kiểm soát chặt chẽ trong việc tăng lãi suất của các ngân hàng, khống chế mức lãi suất vay cố định để các doanh nghiệp có thể vay . Kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng và đôla, hạn chế việc tự ý tăng giá vàng của các ngân hàng làm cho giá vàng trong nước luôn luôn cao hơn giá vàng trên thế giới, khuyến khích người dân gửi tiết kiệm vàng. Vì nước ta luôn luôn phải nhập khẩu vàng trong khi đó lượng vàng mà người dân giữ là rất lớn, cần có biện pháp để thu hút nguồn vàng từ dân cư để hạn việc nhập khẩu vàng bên cạnh đó cũng thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế. Thứ ba,thi hành chính sách thắt chặt như tạm hoãn các khoản đầu tư công thay vào đó tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, giúp họ có thể tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất thấp để đầu tư mở rộng sản xuất và cát giảm chi tiêu chính phủ tới mưc có thể.Các khoản tiền tiết kiệm được chính phủ sẽ sử dụng vào việc trợ giá cho các đơn vị kinh doanh sản xuất cơ bản hoặc tăng lương, tăng trợ cấp an sinh xã hội cho tầng lớp nghèo. Giải pháp giảm gánh nặng tăng giá cho người có thu nhập thấp: lạm phát tác động đến mọi đời sống trong xã hội nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vẫn là ngời nghèo. Hiện nay, những người có thu nhập thấp đang rất lo lắng vì không biết lạm phát sẽ còn lấy đi của họ bao nhiêu phần thu nhập thực tế nữa, nó còn làm cho cuộc sống của họ ngày càng khó khăn tới mức nào nữa. Và điều này cũng không còn là mối lo của riêng người nghèo nữa, mà nó còn là mối lo của rất nhiều người. Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo là vấn đề lớn mà nhà nước đang rất quan tâm, để làm tốt điều đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: cải cách lương, học bong cho học sinh dân tộc các trường nội trú, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn giảm thuế nông nghiệp, hỗ trợ vốn vay ưu đãi để người dân phát triển sản xuất…Nhưng để giải quyết hậu quả của lạm phát đối với người nghèo thì cần phải thực hiện những giải pháp cấp bách như: Tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo: tăng lương cho người lao động để một phần nào đó người lao động chủ động trong việc chi tiêu của mình, bên cạnh đó nhà nước cần phải tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp đưa hàng bình ổn giá tới tay người tiêu dùng, giúp người nghèo dễ dàng tiếp cận được với hàng bình ổn. Thứ tư, cần có các biện pháp hạn chế việc nhập khẩu lương thực thực phẩm. Nước ta là một nước đi lên từ nền nông nghiệp, đất đai thì màu mỡ việc nhập khẩu lương thực là một nghịch lý. Chính vì vậy, nhà nước cần hỗ trợ trong việc phát triển các vùng nguyên liệu cung cấp cho ngành chế biến thủy sản, thực phẩm, đầu tư các dây truyền sản xuất hiện đại để tránh việc chỉ làm gia công cho các nước phát triển. Và cuối cùng, phải khuyến khích người dân tiêu dùng hàng trong nước, hạn chế việc dùng hàng nhập khẩu. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước phát triển. TÓM TẮT CHƯƠNG 2 Chương 2 là sự mô tả khái quát về thực trạng lạm phát của nước ta hiện nay bên cạnh đó cũng có một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát giúp cho nền kinh tế ngày một ổn định và phát triển hơn.

No comments:

Post a Comment

LIÊN HỆ HƯỚNG DẪN DOWNLOAD TÀI LIỆU 0972246583 - 0984985060