Tuesday, May 10, 2016

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn ở hệ thống ngân hang thương mại nước ta

Tỉ lệ này càng nhỏ càng tốt.  Chỉ tiêu tỉ lệ lợi nhuận tín dụng ngắn hạn Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua phần lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng ngắn hạn. Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn Tỉ lệ lợi nhuận tín dụng ngắn hạn = Tổng lợi nhuận của ngân hàng Trong kinh doanh tín dụng phải thực hiện lãi suất dương, có nghĩa là lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng có thể tùy từng thời gian, điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách khách hàng hợp lí, mở rộng đầu tư tín dụng, thu hút khách hàng nhưng vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng có hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ các khoản vay không thu hồi được gốc mà còn thu hồi được lãi, đảm bảo độ an toàn của đồng vốn cho vay. Hiện nay ngân hàng áp dụng nhiều giải pháp tình thế để đảm bảo chất lượng tín dụng, thể hiện qua nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng. Nhóm chỉ tiêu định tính thể hiện cho vay đảm bảo các quy chế thể lệ tín dụng. Nhóm chỉ tiêu định lượng nhằm phân tán rủi ro, đảm bảo các thông số tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tín dụng như dư nợ của 10 khách hàng nhỏ hơn hoặc bằng 30% tổng dư nợ, dư nợ của một khách hàng nhỏ hơn hoặc bằng 10%vốn điều lệ và cấc quĩ, tỉ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn hoặc bằng 5% tổng dư nợ... Các nhóm chỉ tiêu trên có được thực hiện hay không là tùy thuộc vào ý thức chấp hành thể lệ tín dụng, qui trình kĩ thuật cho vay. 1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.4.3.1. Những nhân tố khách quan Hoạt động của mỗi NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế – xã hội. Một ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế – xã hội không ổn định thì cũng khó mà thành công. Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế – xã hội đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM từ các yếu tố sau:  Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh, các chủ thể tham gia nền kinh tế đang hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng, chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên. Nhưng môi trường kinh tế cũng có thể có những thay đổi bất ngờ. Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực tế sẽ giảm xuống và nếu như ngân hàng không cân đối giữa các khoản mục bên nguồn vốn và tài sản nhạy cảm với lãi suất thì có thể các khoản tín dụng đó có thể không mang lại hiệu quả như mong đợi. Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về thị trường làm cho chủ đầu tư bị bất ngờ, dẫn đến tình trạng dòng tiền vào không như kế hoạch làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng. Như vậy chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà nó hoạt động, vấn đề đối với các ngân hàng là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động tín dụng.  Môi trường pháp lý Một ngân hàng thương mại khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về luật pháp của Nhà nước, cũng như của ngân hàng Nhà nước như vậy môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình, góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.  Môi trường chính trị –xã hội Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng. Điều này giúp cho ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tác động của môi trường chính trị xã hội tới chất lượng hoạt động tín dụng là không thường xuyên, nhưng khi có những biến động về chính trị, tác động của nó tới các ngân hàng là vô cùng lớn. Một sự thay đổi hệ thống chính trị bạo động có thể làm cho các ngân hàng mất toàn bộ các khoản tín dụng của mình, điều này sẽ đẩy nó đến bờ vực phá sản. 1.4.3.2. Những nhân tố chủ quan.  Chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thông thường chính sách tín dụng có các khoản mục sau: các loại cho vay được thực hiện, giới hạn tín dụng, kỳ hạn cho vay, hướng giải quyết tín dụng vượt giới hạn, thanh toán nợ…vì thế nó có quyết định to lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc tiết kiệm và đầu tư thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của ngân hàng, đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có tín dụng tốt đều phải có một chính sách tín dụng rõ ràng phù hợp với ngân hàng của mình.  Chất lượng của công tác thẩm định dự án. Khi đến ngân hàng để xin được cấp tín dụng, khách hàng thường phải mang đến một bộ hồ sơ về dự án mà họ sẽ tiến hành thực hiện. Thẩm định dự án giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để được cấp tín dụng hay không. Cũng thông qua công tác thẩm định, ngân hàng với những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn, giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn tạo mối quan hệ tốt với khách hàng. Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức tạp. Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không cho nên chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng. Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao tức là nhân viên tín dụng không xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng mà ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình. Chính vì vậy công tác thẩm định đòi hỏi các nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô của ngân hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng, quy mô và loại hình tín dụng, quy trình tín dụng tại ngân hàng đó. Trong quy trình hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người vay, nhận đơn xin vay, phỏng vấn khách hàng, thu nhậpthông tin về khách hàng và dự án trước khi có quyết định chính thức trình cán bộ cấp cao hơn. Những thông tin về khách hàng và dự án sau khi được các phòng ban chức năng của ngân hàng xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể giải ngân và thu nợ sau này. Trong quá trình này nếu các khâu được thực hiện tốt nó sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được các dự án tốt để cấp tín dụng, cũng như tạo uy tín trong lòng khách hàng. Như vậy, công tác tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng có thể hỗ trợ đắc lực cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.  Chất lượng của đội ngũ nhân sự. Yếu tố mang tính quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm chất lượng tín dụng lại chính là nguồn nhân lực của ngân hàng vì suy cho cùng quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính chất chủ quan. Một ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và phương thức phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp ngân hàng có được những khoản cho vay với chất lượng cao nhất. Các cán bộ của các phòng ban, các bộ phận chức năng khác sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, tạo dấu ấn trong lòng thị trường. Ngoài ra, chất lượng nguồn thông tin khách hàng, thông tin thương mại khác cũng góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng. Điểm yếu của ngân hàng thương mại nước ta là thiếu hệ thống thông tin khách hàng một cách đầy đủ, kịp thời. Điều này đã phần nào giảm hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng. 1.4.3.3. Các yếu tố từ khách hàng.  Do khách hàng kinh doanh thua lỗ. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nợ quá hạn của ngân hàng. Đối với những khoản vay phục vụ mục đích kinh doanh thì nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn là tiền đề cho sự hoàn trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi. Ngược lại, thua lỗ trong kinh doanh của doanh nghiệp xảy ra khi việc tính toán triển khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, không được thực hiện kỹ càng, xác thực, các rủi ro bất khả kháng của các định hướng sản xuất kinh doanh gây tác động xấu và sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ với các mức độ khác nhau.  Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, sử dụng vốn sai mục đích. Nhiều doanh nghiệp dùng vốn vay ngân hàng không đúng phương án, mục đích xin vay vốn. Các nguồn thu của doanh nghiệp rất hạn chế nhưng khối lượng các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp quá lớn (như các khoản nợ ngân sách, nợ công nhân viên chức, nợ người bán hàng, nợ ngân hàng, nợ các đối tượng khác…). Cơ cấu về vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý, dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến không trả được nợ đúng hạn. Tất cả những nguyên nhân trên gây nên khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn của khách hàng đối với ngân hàng, tạo ra các khoản nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng.  Do chủ ý lừa đảo của người đi vay. Việc không trả nợ đúng hạn có thể xuất phát từ khả năng chi trả yếu kém của khách hàng, cũng có thể xuất phát từ ý định chủ quan của người đi vay không muốn trả nợ (mặc dù có khả năng nhưng không muốn thực hiện). Năm 1997 đã xuất hiện hiện tượng một số công ty trách nhiệm hữu hạn và tư nhân dùng hồ sơ thế chấp nhà giả hoặc hồ sơ thế chấp nhiều ngân hàng để vay tiền rồi bỏ trốn. CHƯƠNG 2 Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng liên doanh Chohung Vina 2.1. Tổng quan về ngân hàng liên doanh Hàn Quốc Chohung Vina Nước ta đang trên đà phát triển đổi mới. Nền kinh tế chuyển theo hướng mở, thông thương, mua bán với các nước trên thế giới. Sự ra đời của các ngân hàng liên doanh là những điều kiện nhằm hỗ trợ cho các hoạt động ngoại thương. Ngân hàng Chohung Vina là một ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Ngân hàng này được đổi tên từ ngân hàng liên doanh First Vina theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước vào ngày 2/1/2001. Ngân hàng First Vina được thành lập và cấp giấy phép hoạt động từ ngày 3/2/1993 theo giấy phép số 10/ NH-GP của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cấp ngày 4/1/1993. Ngân hàng First Vina là ngân hàng liên doanh giữa các bên như sau: * Bên Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Địa chỉ trụ sở: 47 - 49 Lý Thái Tổ, quận Hoàn kiếm, Hà Nội. * Bên nước ngoài: (gồm 2 cổ đông). 1. Korea First Bank Địa chỉ trụ sở: 100 Kyngpyung-dong, Chong no-gu, Seoul 110-160 Hàn Quốc. 2. Daewoo Securities co, LTD. Địa chỉ trụ sở: 34-3 Yongdungo Seoul Hàn Quốc. Trụ sở chính của ngân hàng liên doanh First Vina tại thành phố Hồ Chí Minh, và có một chi nhánh ở Hà nội. Vốn điều lệ của ngân hàng là 10.000.000 USD (mười triệu đôla Mĩ), trong đó bên Việt Nam góp là 5.000.000 USD (năm triệu đôla Mĩ) bằng 50% vốn điều lệ. Bên nước ngoài là Korea First bank góp 4.000.000 USD (bốn triệu đôla Mĩ) bằng 40% vốn điều lệ, bên Công ty Daewoo securities góp 1.000.000 (một triệu đôla Mĩ) bằng 10% vốn điều lệ. Đến ngày 8-8-1995 căn cứ theo Quyết định số 217/QĐ-NH5 ngân hàng liên doanh được phép tăng vốn điều lệ từ 10 triệu lên 20 triệu USD. Chi nhánh ngân hàng liên doanh First Vina ở Hà Nội hoạt động từ năm 1993 đến năm 2001, sau đó đổi tên thành ngân hàng liên doanh Chohung Vina, do thay đổi bên đối tác nước ngoài góp vốn. Hiện tại bên đối tác nước ngoài góp vốn là Chohung Korea Bank cũng góp với số vốn là tám triệu USD, và đối tác thứ hai không thay đổi là Công ty Daewoo Securities và bên Việt Nam là ngân hàng ngoại thương với tổng số vốn góp là mười triệu USD. Nói chung, ngân hàng Chohung Korea và ngân hàng Korea First đều là ngân hàng lớn ở Hàn Quốc. Đặc biệt, ngân hàng Korea First là một ngân hàng hàng đầu ở Hàn Quốc có bề dày hoạt động, tích lũy nhiều kinh nghiệm là điều kiện để chúng ta học hỏi. Ngân hàng Korea First có 6 văn phòng đại diện, 12 chi nhánh nước ngoài và 276 chi nhánh ở trong nước . Năm 1990, ngân hàng Korea First được xếp thứ 13 trong số ngân hàng có vốn lớn nhất ở Hàn Quốc, đứng thứ 200 trong tổng số ngân hàng lớn nhất thế giới. Đại lí của ngân hàng Korea First bao gồm các chi nhánh ngân hàng ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Nha Trang, Quảng Ninh, và các chi nhánh xuất nhập khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh. Công ty Daewoo Securities là công ty con của tập đoàn Daewoo. Đây là tập đoàn lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với Việt nam. Cuối năm 1992, tập đoàn Daewoo có 200 dự án đầu tư tại Việt Nam tương đương 200 triệu USD, trong đó có 5 dự án đầu tư được Uỷ Ban Nhà nước hợp tác và đầu tư cấp giấy phép hoạt động.

No comments:

Post a Comment

LIÊN HỆ HƯỚNG DẪN DOWNLOAD TÀI LIỆU 0972246583 - 0984985060