Monday, May 30, 2016

bài số 2 hoàn thiện công tác kế toán tiền lương và các khoàn trích theo lương tại công ty tnhh xây dựng và thương mại phương đông

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền 1.1.2. Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp (chế độ tiền lương) 1.1.2.1. Hình thức trả lương theo thời gian Đây là hình thức tiền lương mà thu nhập của một người phụ thuộc vào hai yếu tố: số thời gian lao động thực tế trong tháng và trình độ thành thạo nghề nghiệp của người lao động. Chế độ trả lương theo thời gian có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán, nhưng nhược điểm là chỉ mới xem xét đến mặt số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng, nên vai trò kích thích sản xuất của tiền lương hạn chế. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn áp dụng hình thức trả lương này để trả cho đối tượng công nhân chưa xây dựng được định mức lao động cho công việc của họ, hoặc cho công việc xét thấy trả lương theo sản phẩm không có hiệu quả, ví dụ: sửa chữa, kiểm tra chất lượng sản phẩm hoặc sản xuất những sản phẩm yêu cầu độ chính xác cao. Để khắc phục nhược điểm của phương pháp trả lương theo thời gian, người ta áp dụng trả lương theo thời gian có thưởng. Trong những năm vừa qua, hình thức trả lương theo thời gian có xu hướng thu hẹp dần. Nhưng xét về lâu dài, khi trình độ khoa học phát triển cao, trình độ cơ giới hoá, tự động hoá cao thì hình thức lương theo thời gian lại được mở rộng ở đại bộ phận các khâu sản xuất, vì lúc đó các công việc chủ yếu là do máy móc thực hiện. Tiền lương thời gian được chia thành: +Tiền lương tháng: Là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động: Tiền lương phải trả trong tháng = tiền lương ngày X Số ngày làm việc thực tế trong tháng +Tiền lương tuần = (Tiền lương tháng X 12)/52 tuần +Tiền lương ngày : Là tiền lương trả cho 1 ngày làm việc Tiền lương ngày = Tiền lương tháng Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ +Tiền lương giờ: Là tiền trả cho 1 giờ làm việc được xác định Tiền lương giờ = Tiền lương ngày / Số giờ tiêu chuẩn quy định 1.1.2.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Trang: 5 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền Lương trả theo sản phẩm là chế độ tiền lương mà thu nhập của mỗi người tuỳ thuộc vào hai yếu tố: Số lượng sản phẩm làm ra trong tháng và đơn giá tiền công cho một sản phẩm. Số lượng sản phẩm làm ra do thống kê ghi chép. Đơn giá tiền công phụ thuộc vào hai yếu tố: Cấp bậc công việc và định mức thời gian hoàn thành công việc đó. Có thể nói rằng hiệu quả của hình thức trả lương theo sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào công tác định mức lao động có chính xác hay không. Định mức vừa là cơ sở để trả lương sản phẩm, vừa là công cụ để quản lý. Trong giai đoạn hiện nay thì hình thức tiền lương sản phẩm đang là hình thức tiền lương chủ yếu đưọc áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Để đảm bảo hình thức tiền lương này có hiệu quả cần 4 điều kiện sau: - Có hệ thống định mức chính xác. - Phải thường xuyên củng cố, hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất để đảm bảo dây chuyền sản xuất luôn luôn cân đối. - Phải tổ chức tốt công tác phục vụ cho sản xuất như: việc cung cấp nguyên liệu, bán thành phẩm, tổ chức sửa chữa thiết bị kịp thời khi hư hỏng và tổ chức nghiệm thu sản phẩm kịp thời. - Hoàn thiện công tác thống kê kế toán, đặc biệt là công tác thống kê theo dõi tình hình thực hiện mức để làm cơ sở cho việc điều chỉnh mức. Trong thực tế chúng ta thường áp dụng 4 hình thức trả lương theo sản phẩm sau: * Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân Hình thức này được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiếp sản xuất, trong điều kiện quá trình lao động của họ mang tính chất độc lập tương đối, có thể định mức và kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt. Đơn giá xác định như sau: ĐG = L/Q hoặc ĐG = L x T Trong đó: ĐG : Đơn giá sản phẩm. L : Lương theo cấp bậc Q : Mức sản lượng T : Mức thời gian * Trả lương tính theo sản phẩm tập thể Là một hình thức tiền lương áp dụng cho những công việc nặng nhọc có định Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Trang: 6 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền mức thời gian dài, cá nhân từng người không thể làm được hoặc làm được nhưng không đảm bảo tiến độ, đòi hỏi phải áp dụng lương sản phẩm tập thể. Khi áp dụng hình thức này cần phải đặc biệt chú ý tới cách chia lương sao cho đảm bảo công bằng hợp lý, phải chú ý tới tình hình thực tế của từng công nhân về sức khoẻ, về sự cố gắng trong lao động. * Trả lương theo sản phẩm gián tiếp Thường áp dụng để trả cho cán bộ quản lý và công nhân phục vụ. khi áp dụng hình thức này có hai tác dụng lớn: Thắt chặt mối quan hệ giữa cán bộ quản lý, công nhân phục vụ với công nhân trực tiếp sản xuất và tạo điều kiện cho cán bộ quản lý phải quan tâm tới việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Để áp dụng nó, cần tiến hành qua hai bước: Bước 1: Xác định đơn giá gián tiếp (ĐGGT) Sản lượng định mức bình quân của công nhân trực tiếp trong tháng ĐGGT = Lương cấp bậc tháng của gián tiếp Bước 2: Tính lương sản phẩm gián tiếp (L) Sản phẩm thực tế của Đơn giá L = công nhân sản xuất x gián tiếp * Lương theo sản phẩm luỹ tiến Là một hình thức tiền lương sản phẩm nhưng dùng nhiều đơn giá khác nhau để trả cho công nhân tăng sản lượng ở mức độ khác nhau, theo nguyên tắc: Những sản phẩm trong định mức thì trả theo đơn giá chung thống nhất, còn những sản phẩm vượt định mức thì trả theo đơn giá luỹ tiến (Đơn giá này lớn hơn đơn giá chung). Chế độ lương này có tác dụng kích thích sản xuất mạnh mẽ, nhưng nó vi phạm nguyên tắc: Sẽ làm cho tốc độ tăng tiền lương tăng nhanh hơn tốc độ tăng năng suấtlao động. Nên phạm vi áp dụng chỉ với những khâu trọng yếu của dây chuyền, hoặcvào thời điểm nhu cầu của thị trường cần số lượng lớn loại sản phẩm đó, hoặc vàothời điểm có nguy cơ không hoàn thành hợp đồng kinh tế, bị phạt những khoản tiền lớn. Sau khi đã khắc phục được các hiện tượng trên phải trở lại ngay hình thức lương sản phẩm thông thường. Song song với lương sản phẩm lũy tiến ta có lương sản phẩm lũy lùi. Áp dụng với trường hợp nguy cơ thị trường bị thu hẹp, không có khả năng tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Áp dụng lương sản phẩm lũy lùi là để hạn chế sản xuất và kìm Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Trang: 7 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền hãm nó. 1.1.2.3. Lương khoán Tiền lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Để áp dụng lương khoán cần chú ý hai vấn đề sau: tăng cường công tác kiểm tra để đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng, và thực hiện thật nghiêm chỉnh chế độ khuyến khích lợi ích vật chất. Mức thưởng, phạt cao hay thấp là tuỳ thuộc vào phần giá trị làm lợi và phần giá trị bị thiệt hại hư hỏng. 1.1.2.4. Trả lương theo thời gian có thưởng Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản là chế độ tiền lương mà tiền lương nhận được của công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gjan làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó xác định đựơc định mức lao động, khó đánh giá công việc chính xác. Tiền lương được tính như sau: Mức lương bình quân/ngày = Mức lương cơ bản x Bậc lương 26 Lương thời gian nghỉ việc hưởng = Mức lương cơ bản x Bậc lương 26 Lương nghỉ hưởng = Mức lương cơ bản x Bậc lương 26 x Số ngày x nghỉ việc Số ngày nghỉ việc x Số % BHXH được *Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng Chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa chế đọ trả lương theo thời gian đơn giản với tiền thưởng khi đạt được chỉ tiêu số lượng hoặc chất lượng quy định. Chế độ trả lương này áp dụng chủ yếu với những công nhân phụ làm công việc phục vụ như công nhân sữa chữa, điều chỉnh thiết bị …Ngoài ra còn áp dụng đối với những công nhân ở những khâu có trình độ cơ khí hóa cao, tự động hóa hoặc những công nhân tuyệt đói phải đảm bảo chất lượng. Công thức tính sau: Tiền lương phải trả cho người lao động = Tiền lương trả theo thời gian + Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Tiền thưởng Trang: 8 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền - Chế độ trả lương này có nhiều ưu điểm hơn chế độ trả lương theo thời gian đơn giản.Trong chế độ này không phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông qua chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiêm và công tác của mình.  Nguyên tắc trả lương -Lương chỉ trả khi công việc đã làm xong. -Lương phải trả kịp thời để bồi dưỡng sức lao động cho công nhân viên. -Khi trả lương phải khấu trừ các khoản công nhân viên còn nợ doanh nghiệp:tiền tạm ứng chưa chi,tiền điện nước… -Tuyệt đối không ứng trước lương để trả dần. 1.1.3. Một số chế độ khác khi tính lương 1.1.3.1. Chế độ thưởng Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ sung cho tiền lương nhằn quán triệt hơn nguyên tắc phân phí lao động và nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tiền thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích vật chất đối với người lao động trong quá trình làm việc. Qua đó nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian làm việc. - Đối tượng xét thưởng: Lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ 1 năm trở lên, có đóng góp vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mức thưởng: Mức thưởng một năm không thấp hơn một tháng lương theo nguyên tắc sau: + Căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp thể hiện qua năng suất lao động, chất lượng công việc. + Căn cứ vào thời gian làm việc tại doanh nghiệp. - Các loại tiền thưởng : tiền thưởng bao gồm tiền thưởng thi đua ( lấy từ quỹ khen thưởng) và tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh( thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến). Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Trang: 9 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Huyền + Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh( thường xuyên): hình thức này có tính chất lương, đây thực chất là một phầm của quỹ lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng cho một tiêu chí nhất định. + Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: Khoản tiền này được tính trên cơ sở tỷ lệ quy định chung( không quá 40%) và sự chênh lệch giá giữa sản phẩm cấp cao và sản phẩm cấp thấp. + Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): Loại tiền thưởng này không thuộc quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền này được trả dưới hình thức phân loại trong một kỳ ( quý, nửa năm, năm). 1.1.3.2. Chế độ phụ cấp - Phụ cấp trách nhiệm: Nhằm bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản xuất hoặc làm công việc chuyên môn nghiệp vụ, vừa kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm hoặc những người làm việc đòi hỏi trách nhiệm cao chưa được xác định trong mức lương. Phụ cấp trách nhiệm được tính và trả cùng lương tháng. Đối với doanh nghiệp, phụ cấp này được tính vao đơn giá tiền lương và tính vào cho phí lưu thông. - Phụ cấp khác: Là các khoản phụ cấp thêm cho người lao động như làm ngoài giờ, làm thêm....... - Phụ cấp thu hút: Áp dụng đối với công nhân viên chức đến làm việc tại những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các đảo xa có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn do chưa có cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. 1.1.3.3. Quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN ∗ Bảo hiểm xã hội (BHXH): Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) được hình thành nhằm mục đích trả lương cho công nhân viên (CNV) khi nghỉ hưu hoặc giúp đỡ cho CNV trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, mất sức lao động phải nghỉ việc… Quỹ BHXH dược hình thành bằng cách tính thêm vào chi phí sản xuất theo tỷ lệ quy định của tiền lương phải trả cho CNV . Theo chế độ hiện hành, hàng tháng doanh nghiệp trích lập quỹ BHXH theo tỷ lệ 24% trên lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số lương bảo lưu , phụ cấp chức vụ, thâm niên, khu vực, trong đó 17% tính vào chi phí sản xuất của các bộ phận sử dụng lao động, Sinh viên: Nguyễn Văn Long – MSSV: 11023223 – Lớp: CDKT13DTH Trang: 10

No comments:

Post a Comment

LIÊN HỆ HƯỚNG DẪN DOWNLOAD TÀI LIỆU 0972246583 - 0984985060