
CHỈNH SỬA VĂN BẢN - CHUYỂN ĐỔI FONT CHỮ - LÊN MỤC LỤC - DOWLOAD TÀI LIỆU TRÊN CÁC WEBSITE NHƯ: 123doc, xemtailieu, tailieu.vn ... HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. TẬN TÂM ĐEM LẠI LỢI ÍCH LỚN NHẤT CHO KHÁCH HÀNG
Monday, March 28, 2016
Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
Ngoài ra, trong trường hợp 1 khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với
TCTD mà có bất cứ khoản nợ nào chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao thì TCTD bắt
buộc phải phân loại khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào nhóm nợ rủi ro cao
hơn tương ứng với mức độ rủi ro; trường hợp các khoản nợ ( kể cả các khoản nợ
trong hạn theo thời hạn nợ cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá khả năng
trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các
khoản nợ đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn.
1.3 Sự cấp thiết và nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM
1.3.1 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại
Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách
hàng của NH thấp. Do đó NH phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất thoát
này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc "xóa sổ" những
khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán cho người gửi tiền. Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào
những lòng tin, do đó khi thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn,
người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài
ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ bảo đảm
hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có sự thất thoát
trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là 1 ngân hàng và ở 1 mức độ nhất định nào
đó cũng sẽ đe doạ tới sự tan toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thế giới hiện nay là thế giới của toàn cầu hoá và hội nhập hoá Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật này bởi vì ngày 11/06/2007 Việt Nam chính thức
gia nhập WTO - Tổ chức thương mại thế giới, đánh dấu bước ngoặt lớn của nền
kinh tế Việt Nam khi bước vào một sân chơi mới đồng thời đặt ra nhiều cơ hội
nhưng cũng đầu thách thức. Cải cách khu vực ngân hàng thương mại là một trong
những chủ trương cải cách khu vực Ngân hàng thương mại là một trong những chủ
trương cải cách hàng đầu mà Chính phủ luôn theo đuổi với mục tiêu từng bước hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Bởi vậy vấn đề nợ xấu lớn trong các Ngân
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
hàng thương mại là một thách thức trên con đường hội nhập. Có xử lí được vấn đề
này, năng lực cạnh tranh của các NHTM mới được cải thiện. Từ năm 2010, các
hạn chế, phân biệt giữa ngân hàng trong và ngoài nước đã được xoá bỏ, chấm dứt
sự bảo hộ ở nhà nước, các NHTM thực sự đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Do
đó, giải quyết những tồn tại, hạn chế trong hệ thống Ngân hàng thương mại là rất
cần thiết, đặc biệt là vấn đề xử lý nợ xấu cần được quan tâm, chú ý hơn.
1.3.2 Nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại
Khi xử lí các khoản nợ xấu, NHTM có 2 sự lựa chọn tổng quan: khai thác
hoặc thanh lí khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoán
cho vay được trả một phần hay toàn bộ người không dựa vào các công cụ pháp lí
để ép buộc thu ngân thanh lí là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp
đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp pháp lí để đạt mục tiêu. Các
yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà NH sẽ theo đuổi để xử lí những khoản
cho vay. Nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu ngân và tổn thất có thể xảy ra đối
với khoản cho vay, trong trường hợp này NH phải áp dụng hình thức thu ngân bắt
buộc theo luật. Bên cạnh đó có các yếu tố như sự thật thà và thái độ của người vay
đối với các khoản nợ, sức mạnh tài chính là khả năng chi trả của người vay, mặc
dù cần thiết thời gian đáng kể, giá trị của người vay đối với NH, chi phí kèm theo
việc thu NH khôi phục cho người vay và phương pháp nào sẽ đem lại lợi ích lớn
nhất cho ngân hàng trên số vốn đã và đang bị khó khăn. Một yếu tố cuối cùng cần
phải quan tâm là thái độ của chủ nợ, mà điều này xảy ra rất nhiều. Trong việc xử lí
ngoài phạm vi của toà án, sự sắp xếp các việc phải làm cần được những người liên
quan chấp nhận. Một người phản đối có thể làm cho kế hoạch không được thực
hiện phải thuyết phục của chủ nợ này rằng, họ được lợi bằng cách cộng tác với một
kế hoạch được đề nghị hơn là hoạt động đơn phương
Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, NH thường tham gia tổ chức khai
thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết người vay thật thà thái độ của họ đối với
khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
vốn lớn trong doanh nghiệp, một số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể
tạo lợi nhuận đủ số lượng để hoàn trả khoản vay đáng nghi vấn, cũng như những
khoản cho vay khác cần cho việc duy trì doanh nghiệp, nếu người vay không thể
trả nợ theo nghĩa sự vỡ nợ thì NH nên thực hiện thanh lí. Hầu hết các khoản cho
vay khó đòi tại NHTM được xử lí bằng phương pháp khai thác, nghĩa là người vay
được phép tự khắc phục khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ NH càng
nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không phải là một công cụ pháp lí, nó có thể
có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay các biện pháp có thể bao
gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức
của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô
hoàn trả cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh
hơn NH nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh nó, cho đến khi bảo đảm
rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả. Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn
khó khăn, lập tức NH áp dụng biện pháp để bảo đảm thế chấp và một thoả thuận
bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng của người cho vay. Nếu NH thấy rõ là việc tổ
chức khai thác không tiện lợi, sự thanh lí dưới 1 trong vài hình thức có thể được
coi là cách hay nhất để xử lí một khoản cho vay đã trở thành nghi ngờ và nợ có khả
năng mất vốn (thuộc nhóm 4, 5). Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là
NH đã quyết định sau khi cần nhất tất cả mọi yếu tố kể trên người nhận thấy rằng
khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, việc gia hạn hợp
đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm NH sẽ bớt được một tỷ lệ % vốn cấp
phát, biện pháp thanh lí là tối ưu nhất. Sự thanh lí nhanh chóng được thực hiện
trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo
hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính của
người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ. Có một số biện pháp thực hiện
việc thanh lí: Nếu khoản cho vay được bảo đảm, có thể bán nó đi, thường thì nó
không đem lại mức giá thị trường hợp lí. Trong trường hợp khối lượng nhận được
từ việc bán vật thế chấp không đủ thanh toán nợ, NH có thể nhận phán quyết của
toà án về khoản chênh lệch phán quyết như thế cho phép NH quyền thu thêm nếu
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
người vay có các tích sản. Nhân việc NH có thể thực hiện thanh lí với sự giúp đỡ
của chuyên gia tư vấn pháp luật của NH hay bộ phận liên quan đến những khoản
cho vay có vấn đề và thành viên của bộ phận tham mưu có chuyên môn về lĩnh vực
này. Cuối cùng một nhân viên thanh lí chuyên nghiệp được NH thuê xử lí việc
thanh lí. Một hình thức thanh lí khác là tái sở hữu các hàng hoá tiêu dùng lâu bền
trong một số trường hợp tư liệu sản xuất, được bán theo hợp đồng bán có điều kiện
và mua lại từ một nhà buôn. Quá trình này được thực hiện bằng cách giữ lại hàng
hoá sau đó tiến hành bán với giá nào đó hy vọng có thể trả hết nợ. Trong trường
hợp ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp xử lý để thu hồi số nợ vay không bảo
đảm, phán quyết cần phải có từ toà án thích hợp. Phán quyết này cho phép nắm giữ
người bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp với quyết định của toà
án hay trừ vào lương theo mức được luật pháp cho phép. Nếu NH là một trong số
các chủ nợ và ai cũng muốn lấy lại tiền và có vị thế mạnh tương ứng như NH thì
một uỷ ban chủ nợ có thể được thành lập. Cách giải quyết này không áp dụng cho
trường hợp phá sản và cũng có thể áp dụng phương pháp khai thác. Phá sản có 2
hình thức bồi thường cơ bản cho các chủ nợ, thanh lí và hồi phục. Phá sản có thể
miễn cưỡng hay cố ý. Nó là biện pháp cuối cùng theo quan điểm của các chủ nợ.
NH hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần đáng kể
các khoản cho vay từ quá trình thanh lí nhưng thực tế thường không được như
mong muốn. Trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng khi các chủ nợ không thể
đạt thoả thuận hợp lý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi được
vốn vay, hay khi 1 chủ nợ nhỏ nào đó từ chối tiến hành một thoả thuận hợp tác hay
khi người vay từ chối làm việc với chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài
chính.
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG
HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2.1 Thực trạng và nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
2.1.1 Thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
Tình hình "nợ xấu" trong những năm gần đây đã được đề cập đến nhiều
nhưng hầu như bài toán hóc búa này chưa có lời giải cuối cùng.
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Trần Thị Hường
Ta có thể thấy, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM liên tục tăng từ năm 2009, và
đỉnh điểm là năm 2012, tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 7,8% dư nợ của các NHTM và có
giảm nhẹ xuống 6% vào năm 2013.
Đến tận thời điểm này, tức là gần 21 tháng kể từ thời điểm Thống đốc
Nguyễn Văn Bình đưa ra một con số nợ xấu ước tính xấp xỉ 10% tại kỳ họp quốc
hội vào tháng 6/2012, NHNN vẫn chưa thể, hoặc chưa dám, công bố con số chính
thức và đáng thuyết phục về quy mô nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thị trường đã tự có các ước tính của mình, và con số ước tính giao động trong
khoảng từ 12%-17%.
Gần đây nhất, hồi giữa tháng 2/2014, trong lần “phản pháo” lại báo cáo của
Moody’s cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng
15%, một đại diện của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng không có chuyện
nợ xấu cao thế, và lại đưa ra một con số ước tính khác là “chỉ khoảng 9%”.
Con số nợ xấu thấp hơn một nửa này không làm cho thị trường thấy lạc quan
hơn, bởi vì nó vẫn chỉ là một ước tính khác từ phía NHNN, và nó cũng cho thấy
một thực tế là các ngân hàng thương mại (NHTM) trong hệ thống vẫn đang giấu
nợ, bởi vì con số nợ xấu tổng hợp theo báo cáo tài chính của các NHTM đến thời
SVTH: Nguyễn Khánh
MSSV: 10012203
Trang 16

Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment