Monday, March 28, 2016

Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường Ngoài ra, trong trường hợp 1 khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với TCTD mà có bất cứ khoản nợ nào chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao thì TCTD bắt buộc phải phân loại khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro; trường hợp các khoản nợ ( kể cả các khoản nợ trong hạn theo thời hạn nợ cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn. 1.3 Sự cấp thiết và nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM 1.3.1 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách hàng của NH thấp. Do đó NH phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc "xóa sổ" những khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào những lòng tin, do đó khi thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn, người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là 1 ngân hàng và ở 1 mức độ nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ tới sự tan toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thế giới hiện nay là thế giới của toàn cầu hoá và hội nhập hoá Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này bởi vì ngày 11/06/2007 Việt Nam chính thức gia nhập WTO - Tổ chức thương mại thế giới, đánh dấu bước ngoặt lớn của nền kinh tế Việt Nam khi bước vào một sân chơi mới đồng thời đặt ra nhiều cơ hội nhưng cũng đầu thách thức. Cải cách khu vực ngân hàng thương mại là một trong những chủ trương cải cách khu vực Ngân hàng thương mại là một trong những chủ trương cải cách hàng đầu mà Chính phủ luôn theo đuổi với mục tiêu từng bước hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Bởi vậy vấn đề nợ xấu lớn trong các Ngân SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 11 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường hàng thương mại là một thách thức trên con đường hội nhập. Có xử lí được vấn đề này, năng lực cạnh tranh của các NHTM mới được cải thiện. Từ năm 2010, các hạn chế, phân biệt giữa ngân hàng trong và ngoài nước đã được xoá bỏ, chấm dứt sự bảo hộ ở nhà nước, các NHTM thực sự đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Do đó, giải quyết những tồn tại, hạn chế trong hệ thống Ngân hàng thương mại là rất cần thiết, đặc biệt là vấn đề xử lý nợ xấu cần được quan tâm, chú ý hơn. 1.3.2 Nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Khi xử lí các khoản nợ xấu, NHTM có 2 sự lựa chọn tổng quan: khai thác hoặc thanh lí khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoán cho vay được trả một phần hay toàn bộ người không dựa vào các công cụ pháp lí để ép buộc thu ngân thanh lí là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp pháp lí để đạt mục tiêu. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà NH sẽ theo đuổi để xử lí những khoản cho vay. Nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu ngân và tổn thất có thể xảy ra đối với khoản cho vay, trong trường hợp này NH phải áp dụng hình thức thu ngân bắt buộc theo luật. Bên cạnh đó có các yếu tố như sự thật thà và thái độ của người vay đối với các khoản nợ, sức mạnh tài chính là khả năng chi trả của người vay, mặc dù cần thiết thời gian đáng kể, giá trị của người vay đối với NH, chi phí kèm theo việc thu NH khôi phục cho người vay và phương pháp nào sẽ đem lại lợi ích lớn nhất cho ngân hàng trên số vốn đã và đang bị khó khăn. Một yếu tố cuối cùng cần phải quan tâm là thái độ của chủ nợ, mà điều này xảy ra rất nhiều. Trong việc xử lí ngoài phạm vi của toà án, sự sắp xếp các việc phải làm cần được những người liên quan chấp nhận. Một người phản đối có thể làm cho kế hoạch không được thực hiện phải thuyết phục của chủ nợ này rằng, họ được lợi bằng cách cộng tác với một kế hoạch được đề nghị hơn là hoạt động đơn phương Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, NH thường tham gia tổ chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết người vay thật thà thái độ của họ đối với khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 12 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường vốn lớn trong doanh nghiệp, một số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể tạo lợi nhuận đủ số lượng để hoàn trả khoản vay đáng nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khác cần cho việc duy trì doanh nghiệp, nếu người vay không thể trả nợ theo nghĩa sự vỡ nợ thì NH nên thực hiện thanh lí. Hầu hết các khoản cho vay khó đòi tại NHTM được xử lí bằng phương pháp khai thác, nghĩa là người vay được phép tự khắc phục khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ NH càng nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không phải là một công cụ pháp lí, nó có thể có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay các biện pháp có thể bao gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô hoàn trả cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh hơn NH nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh nó, cho đến khi bảo đảm rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả. Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn khó khăn, lập tức NH áp dụng biện pháp để bảo đảm thế chấp và một thoả thuận bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng của người cho vay. Nếu NH thấy rõ là việc tổ chức khai thác không tiện lợi, sự thanh lí dưới 1 trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lí một khoản cho vay đã trở thành nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn (thuộc nhóm 4, 5). Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là NH đã quyết định sau khi cần nhất tất cả mọi yếu tố kể trên người nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, việc gia hạn hợp đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm NH sẽ bớt được một tỷ lệ % vốn cấp phát, biện pháp thanh lí là tối ưu nhất. Sự thanh lí nhanh chóng được thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính của người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ. Có một số biện pháp thực hiện việc thanh lí: Nếu khoản cho vay được bảo đảm, có thể bán nó đi, thường thì nó không đem lại mức giá thị trường hợp lí. Trong trường hợp khối lượng nhận được từ việc bán vật thế chấp không đủ thanh toán nợ, NH có thể nhận phán quyết của toà án về khoản chênh lệch phán quyết như thế cho phép NH quyền thu thêm nếu SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 13 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường người vay có các tích sản. Nhân việc NH có thể thực hiện thanh lí với sự giúp đỡ của chuyên gia tư vấn pháp luật của NH hay bộ phận liên quan đến những khoản cho vay có vấn đề và thành viên của bộ phận tham mưu có chuyên môn về lĩnh vực này. Cuối cùng một nhân viên thanh lí chuyên nghiệp được NH thuê xử lí việc thanh lí. Một hình thức thanh lí khác là tái sở hữu các hàng hoá tiêu dùng lâu bền trong một số trường hợp tư liệu sản xuất, được bán theo hợp đồng bán có điều kiện và mua lại từ một nhà buôn. Quá trình này được thực hiện bằng cách giữ lại hàng hoá sau đó tiến hành bán với giá nào đó hy vọng có thể trả hết nợ. Trong trường hợp ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp xử lý để thu hồi số nợ vay không bảo đảm, phán quyết cần phải có từ toà án thích hợp. Phán quyết này cho phép nắm giữ người bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp với quyết định của toà án hay trừ vào lương theo mức được luật pháp cho phép. Nếu NH là một trong số các chủ nợ và ai cũng muốn lấy lại tiền và có vị thế mạnh tương ứng như NH thì một uỷ ban chủ nợ có thể được thành lập. Cách giải quyết này không áp dụng cho trường hợp phá sản và cũng có thể áp dụng phương pháp khai thác. Phá sản có 2 hình thức bồi thường cơ bản cho các chủ nợ, thanh lí và hồi phục. Phá sản có thể miễn cưỡng hay cố ý. Nó là biện pháp cuối cùng theo quan điểm của các chủ nợ. NH hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần đáng kể các khoản cho vay từ quá trình thanh lí nhưng thực tế thường không được như mong muốn. Trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng khi các chủ nợ không thể đạt thoả thuận hợp lý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi được vốn vay, hay khi 1 chủ nợ nhỏ nào đó từ chối tiến hành một thoả thuận hợp tác hay khi người vay từ chối làm việc với chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài chính. SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 14 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM 2.1 Thực trạng và nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam 2.1.1 Thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam Tình hình "nợ xấu" trong những năm gần đây đã được đề cập đến nhiều nhưng hầu như bài toán hóc búa này chưa có lời giải cuối cùng. SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 15 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường Ta có thể thấy, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM liên tục tăng từ năm 2009, và đỉnh điểm là năm 2012, tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 7,8% dư nợ của các NHTM và có giảm nhẹ xuống 6% vào năm 2013. Đến tận thời điểm này, tức là gần 21 tháng kể từ thời điểm Thống đốc Nguyễn Văn Bình đưa ra một con số nợ xấu ước tính xấp xỉ 10% tại kỳ họp quốc hội vào tháng 6/2012, NHNN vẫn chưa thể, hoặc chưa dám, công bố con số chính thức và đáng thuyết phục về quy mô nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thị trường đã tự có các ước tính của mình, và con số ước tính giao động trong khoảng từ 12%-17%. Gần đây nhất, hồi giữa tháng 2/2014, trong lần “phản pháo” lại báo cáo của Moody’s cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15%, một đại diện của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng không có chuyện nợ xấu cao thế, và lại đưa ra một con số ước tính khác là “chỉ khoảng 9%”. Con số nợ xấu thấp hơn một nửa này không làm cho thị trường thấy lạc quan hơn, bởi vì nó vẫn chỉ là một ước tính khác từ phía NHNN, và nó cũng cho thấy một thực tế là các ngân hàng thương mại (NHTM) trong hệ thống vẫn đang giấu nợ, bởi vì con số nợ xấu tổng hợp theo báo cáo tài chính của các NHTM đến thời SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 16

No comments:

Post a Comment

LIÊN HỆ HƯỚNG DẪN DOWNLOAD TÀI LIỆU 0972246583 - 0984985060