
CHỈNH SỬA VĂN BẢN - CHUYỂN ĐỔI FONT CHỮ - LÊN MỤC LỤC - DOWLOAD TÀI LIỆU TRÊN CÁC WEBSITE NHƯ: 123doc, xemtailieu, tailieu.vn ... HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. TẬN TÂM ĐEM LẠI LỢI ÍCH LỚN NHẤT CHO KHÁCH HÀNG
Thursday, March 17, 2016
TRỊNH NGỌC DŨNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ tín DỤNG đối với hộ sản XUẤT tại NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP và PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN – CHI NHÁNH NGA sơn
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách nhiệm
liên đới bằng tài sản riêng của mình.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản
xuất trong nhiều ngành nghề hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh ngành
nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới trên đã góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian
qua.
1.1.1.2. Đặc điểm hộ sản xuất
Tại Việt Nam hiện nay , trên 70% dân số sinh sống ở nông thôn và đại bộ
phận còn sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc. Trong điều kiện đó, hộ là đơn vị
kinh tế cơ sở mà chính ở đó diễn ra quá trình phân công tổ chức lao động, chi
phí cho sản xuất, tiêu thụ, thu nhập, phân phối và tiêu dùng.
Hộ được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên, rất đa dạng. Tuỳ thuộc
vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành một kiểu
cách sản xuất, cách tổ chức riêng trong phạm vi gia đình. Các thành viên trong
hộ quan hệ với nhau hoàn toàn theo cấp vị, có cùng sở hữu kinh tế. Trong mô
hình sản xuất chủ hộ cũng là người lao động trực tiếp, làm việc có trách nhiệm
và hoàn toàn tự giác. Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với
các ngành khác.
Đối tượng sản xuất phát triển hết sức phức tạp và đa dạng, chi phí sản xuất
thường là thấp, vốn đầu tư có thể rải đều trong quá trình sản xuất của hộ mang
tính thời vụ, cùng một lúc có thể kinh doanh sản xuất nhiều loại cây trồng, vật
nuôi hoặc tiến hành các ngành nghề khác lúc nông nhàn, vì vậy thu nhập cũng
rải đều, đó là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển toàn diện.
Trình độ sản xuất của hộ ở mức thấp, chủ yếu là sản xuất thủ công, máy
móc có chăng cũng còn ít, giản đơn, tổ chức sản xuất mang tính tự phát, quy mô
nhỏ không được đào tạo bài bản. Hộ sản xuất hiện nay nói chung vẫn hoạt động
sản xuất kinh doanh theo tính chất truyền thống, thái độ lao động thường bị chi
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
4
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
phối bởi tình cảm đạo đức gia đình và nếp sinh hoạt theo phong tục tập quán của
làng quê.
Từ những đặc điểm trên ta thấy kinh tế hộ rất dễ chuyển đổi hoặc mở rộng
cơ cấu vì chi phí bỏ ra ít, trình dộ khoa học kỹ thuật thấp
Quy mô sản xuất của hộ thường nhỏ, hộ có sức lao động, có các điều kiện
về đất đai, mặt nước nhưng thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật,
thiếu kiến thức về thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự
cấp, tự túc. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ chế chính sách, về vốn
thì kinh tế hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với
cơ chế thị trường.
1.1.1.3 Vai trò hộ sản xuất trong phát triển kinh tế
Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế
tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình. Tiếp theo là giai
đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn- đó
là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy
mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát
triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém
phát triển .
Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn .
Việc làm là một trong những vấn đề cấp bách đối với toàn xã hội nói
chung và đặc biệt là nông thôn hiện nay. Nước ta có trên 70% dân số sống ở
nông thôn. Với một đội ngũ lao động dồi dào, kinh tế quốc doanh đã được nhà
nước trú trọng mở rộng song mới chỉ giải quyết được việc làm cho một số lượng
lao động nhỏ. Lao động thủ công và lao động nông nhàn còn nhiều. Việc sử
dụng khai thác số lao động này là vấn đề cốt lõi cần được quan tâm giải quyết.
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
5
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
Từ khi được công nhận hộ gia đình là 1 đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời
với việc nhà nước giao đất, giao rừng cho nông- lâm nghiệp, đồng muối trong
diêm nghiệp, ngư cụ trong ngư nghiệp và việc cổ phần hoá trong doanh nghiệp,
hợp tác xã đã làm cơ sở cho mỗi hộ gia đình sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất
nguồn lao động sẵn có của mình. Đồng thời chính sách này đã tạo đà cho một số
hộ sản xuất, kinh doanh trong nông thôn tự vươn lên mở rộng sản xuất thành các
mô hình kinh tế trang trại, tổ hợp tác xã thu hút sức lao động, tạo công ăn việc
làm cho lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn.
Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng
hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do
cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản
xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào? để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này
các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm
cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở
rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ
dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh
hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có
các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển . Như vậy
với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp
ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
Từ sự phân tích trên ta thấy kinh tế hộ là thành phần kinh tế không thể
thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá xây dựng đất nước.
Kinh tế hộ phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong cả nước nói
chung, kinh tế nông thôn nói riêng và cũng từ đó tăng mọi nguồn thu cho ngân
sách địa phương cũng như ngân sách nhà nước.
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
6
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
Không những thế hộ sản xuất còn là người bạn hàng tiêu thụ sản phẩm,
dịch vụ của ngân hàng nông nghiệp trên thị trường nông thôn. Vì vậy họ có mối
quan hệ mật thiết với ngân hàng nông nghiệp và đó là thị trường rộng lớn có
nhiều tiềm năng để mở rộng đầu tư tín dụng mở ra nhiều vùng chuyên canh cho
năng xuất và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội. Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động,
tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội. Là đối tác
cạnh tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình cùng vận động và phát triển.
Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất kinh doanh ,tiết kiệm được chi phí, chuyển
hướng sản xuất, tạo được quỹ hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu, tăng thu cho
ngân sách nhà nước.
Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị trường
vốn, thu hút nhiều nguồn đầu tư.
Cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện
cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo lương thực quốc gia và tạo được
nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội,
nâng cao trình độ dân trí, sức khoẻ và đời sống của người dân. Thực hiện mục
tiêu “ Dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh “ Kinh tế hộ được thừa
nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi động, sử
dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái
từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở
thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất các ngành nghề thủ công
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
1.1.2 Tín dụng và hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất.
1.1.2.1 Tín dụng đối với hộ sản xuất
1.1.2.1.1 Khái niệm ,đặc điểm và vai trò của tín dụng đối với hộ sản xuất
* Khái niệm tín dụng ngân hàng
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
7
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng hàng
hoá là vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan
hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên
cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: Tín
dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất của quan hệ tín dụng nói chung.
Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới
hình thức tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Do đặc điểm riêng của mình tín dụng Ngân hàng đạt được ưu thế hơn các
hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc
điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi
vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng
Ngân hàng ngay cáng trở thành hình thức tín dụng quan trọng trong các hình
thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ ‘Tín dụng
hộ sản xuất’. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên
là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ
thể trong quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án kinh
doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư
cách đẻ tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng đây cũng chính là điều kiện để
hộ sản xuất đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
Từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, hạch toán kinh tế và hạch
toán kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục
tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của
thủ tướng Chính phủ, thông tư 01/TĐ - NH ngày 26/03/1993 của thống đóc
Ngân hàng nhà nước hướng dẫn Nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất
vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp. Và quyết định 67/1999/QĐ - TTg
của thủ tưóng Chính phủ, văn bản số 302/CV - NHNo của thống đốc Ngân hàng
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
8
Báo cáo thực tập
GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Phương
nhà nước hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/ NHNo – 06 của
tổng Giám đốcNHNo Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân hàng
phục vụ phát triển nông thôn. với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới
trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu
quả, nhưng cón thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình
trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là
một tất yếu phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp
luật cho phép.
* Đặc điểm của tín dụng đối với hộ sản xuất.
Tính thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng của động thực vật:
Tính chất thời vụ trong cho vay nông nghiệp có liên quan đến chu kỳ sinh
trưởng của động, thực vật trong ngành nông nghiệp nói chung và các ngành
nghề cụ thể mà Ngân hàng tham gia cho vay. Thường tính thời vụ được biểu
hiện ở những mặt sau:
Tính mùa, vụ trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và
thu nợ của Ngân hàng. Nếu ngân hàng tập trung cho vay vào các chuyên ngành
hẹp như cho vay một số cây, con nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung
vào một thời gian nhất định của năm, đầu vụ tiến hành cho vay, đến kỳ thu
hoạch/ tiêu thụ tiến hành thu nợ.
Chu kỳ sống tự nhiên của cây, con là yếu tố quyết định để Ngân hàng
tính toán thời hạn cho vay.
Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của
khách hàng:
Nguồn trả nợ ngân hàng chủ yếu là tiền thu từ bán nông sản và các sản
phẩm chế biến có liên quan đến nông sản. Như vậy sản lượng nông sản thu được
là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng. Mà sản lượng nông sản
chịu ảnh hưởng của thiên nhiên rất lớn.
Chi phí tổ chức cho vay cao
Cho vay hộ sản xuất đặc biệt là cho vay hộ nông dân thường chi phí nghiệp
Sinh viên thực hiện: Trịnh Ngọc Dũng
9

Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment