
CHỈNH SỬA VĂN BẢN - CHUYỂN ĐỔI FONT CHỮ - LÊN MỤC LỤC - DOWLOAD TÀI LIỆU TRÊN CÁC WEBSITE NHƯ: 123doc, xemtailieu, tailieu.vn ... HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. TẬN TÂM ĐEM LẠI LỢI ÍCH LỚN NHẤT CHO KHÁCH HÀNG
Tuesday, March 29, 2016
quy hoạch phát triển hàng không
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
trong những của ngõ HK quan trọng của Lào và Cămphuchia. Sức hút
du lịch Tiểu vùng là một thế mạnh cạnh tranh của các hãng HKVN
trong bối cảnh HK Tiểu vùng đã được tự do hoá. Tuy nhiên điều này
còn phụ thuộc rất lớn vào việc thống nhất thị trường du lịch tiểu vùng,
đặc biệt là vấn đề cấp thị thực nhập cảnh. Năm 2006, thị trường Đông
Dương chiếm 7% thị phần vận tải hành khách và 1% thị phần vận tải
hàng hóa.
Các đường bay quốc tế chủ yếu tập trung vào 2 đầu là Hồ Chí Minh và Hà
Nội, trong đó tần suất bay ở đầu Hồ Chí Minh tương đối dày đặc hơn. Nếu tính
cả các hãng HK nước ngoài đang khai thác tại Việt Nam thì tại đầu Hồ Chí
Minh có 40 đường bay - hơn 300 chuyến/tuần, và có 29 đường bay - hơn 150
chuyến/tuần tại đầu Hà Nội. Ngược lại, đường bay quốc tế đi - đến Đà Nẵng còn
rất hạn chế, chỉ có 3 đường bay với tần suất chưa đến 10 chuyến/tuần.
Hiện tại, mạng đường bay quốc tế của HKVN do Vietnam Airlines và
Pacific Airlines khai thác, trong đó Vietnam Airlines là nhà khai thác chính,
Pacific Airlines chỉ khai thác 03 đường bay đến khu vực Đông Bắc Á là Hồng
Kông, Đài Bắc và Cao Hùng.
3.
So sánh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao nhưng do xuất phát điểm thấp nên thị
trường VTHK Việt Nam nhìn chung vẫn ở mức trung bình thấp trong khu vực
cũng như trên thế giới. So sánh số liệu năm 2003, tổng thị trường HKVN đạt 6,6
triệu khách, thấp hơn nhiều so với Thái lan (35,6 triệu), Ma-lay-sia (29,8 triệu),
In-đô-nê-xia (26,6 triệu), Xinh-ga-po (25,5 triệu) và Phi-líp-pin (18 triệu). Xét
trong khu vực Đông Nam Á, thị trường HKVN đứng thứ 6, trên 04 nước là Brunây, Căm-pu-chia, Lào và Mi-an-ma. Xếp hạng thế giới, chúng ta đứng vị trí thứ
45.
4.
Đánh giá về thị trường vận tải hàng không Việt Nam
Bước vào thế kỷ 21, HKVN có những thuận lợi cơ bản làm tiền đề cho
bước phát triển mới, thể hiện ở bốn yếu tố:
11
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
Thứ nhất, chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước tiếp tục phát huy sức
mạnh, tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam; quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết.
Thứ hai, Việt Nam là một nước đông dân, với dự báo đến năm 2010 nước
ta đạt 94,7 triệu người và năm 2020 là 104,2 triệu người, trong điều kiện mức
sống ngày càng cao, thị trường VTHK sẽ hứa hẹn sự phát triển vượt bậc.
Thứ ba, kinh tế Việt Nam phát triển ở mức cao (bình quân 7 – 8%/năm, tình
hình chính trị ổn định. Việt Nam là điểm an toàn và du lịch từ sau sự kiện
11/9/2001.
Thứ tư, tiềm năng du lịch to lớn của Việt Nam, với lợi thế về đa dạng địa
hình và khí hậu, với một bề dầy lịch sử oai hùng của đất nước, sẽ thu hút nguồn
khách quốc tế to lớn cho HKVN.
a.
Điểm mạnh
-
Khai thác tốt các đường bay nối liền 3 thành phố lớn Hà Nội - Đà Nẵng Hồ Chí Minh và một số đường bay đi - đến các khu vực có lợi thế về du
lịch (Huế, Nha Trang, Phú Quốc...).
-
Mạng đường bay tới thị trường châu Á tương đối rộng khắp và có hiệu quả
khai thác khá cao.
b.
Hạn chế
-
Hiệu quả kinh doanh của các đường bay nội địa chưa cao, nhiều đường bay
địa phương chưa có khả năng sinh lời.
-
Có sự mất cân đối về số lượng và tần suất khai thác của các đường bay
quốc tế đi - đến thành phố Hồ Chí Minh so với 2 thành phố lớn khác là Hà
Nội và Đà Nẵng.
-
Khả năng vươn tới các thị trường xa như châu Âu, châu Mỹ, châu Phi còn
hạn chế.
II. THỰC TRẠNG CÁC DOANH NGHIỆP HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
Ngành HKDD Việt Nam được cấu thành bởi 03 lĩnh vực trọng tâm là
12
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
VTHK, khai thác CHK và quản lý - điều hành hoạt động bay, xoay quanh vai trò
quản lý nhà nước của Cục HKVN. Tương ứng với mỗi lĩnh vực kể trên đều có
các doanh nghiệp chuyên ngành đảm bảo. Hệ thống các doanh nghiệp HK hiện
tại được chia làm hai nhóm cơ bản: Nhóm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích (gọi tắt là doanh nghiệp công ích) trực thuộc Cục HKVN và nhóm các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực VTHK.
Do những thực tế khách quan của nền kinh tế nước ta, các doanh nghiệp
HK hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, do đó nhận được lợi thế rất lớn từ các
chính sách bảo hộ nhà nước, thậm chí một vài lĩnh vực còn là sự độc quyền của
một số doanh nghiệp. Hiện nay, thực hiện chủ trương đổi mới và cải cách doanh
nghiệp của Chính phủ, Ngành cũng đang triển khai sắp xếp lại tổ chức, cơ chế
hoạt động của các doanh nghiệp, dần phù hợp với thông lệ của HKDD quốc tế
trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, tuy nhiên kết quả còn khá khiêm tốn
và mới chỉ là bước đầu. Việc sắp xếp, hợp lý hoá ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh của các doanh nghiệp không phải là việc đơn giản có thể thực hiện ngày
một, ngày hai, mà phải là cuộc cách mạng thực sự giữa tư duy đổi mới theo
hướng hội nhập quốc tế (sẵn sàng đối đầu với cạnh tranh để vươn lên) và tư
tưởng muốn duy trì bảo hộ nhà nước đã tồn tại qua hàng thập kỷ.
1.
Nhóm các doanh nghiệp công ích
Các doanh nghiệp này hoạt động theo Nghị định số 56/CP của Chính phủ.
Các DNCI vừa hoạt động kinh doanh các dịch vụ chuyên ngành, vừa tham gia
đảm bảo các nghĩa vụ công ích của Nhà nước. Nhóm này bao gồm:
-
Trung tâm Quản lý bay dân dụng Việt Nam.
-
Cụm CHK miền Bắc.
-
Cụm CHK miền Trung.
-
Cụm CHK miền Nam.
Các DNCI được Nhà nước đầu tư và giao cho quản lý, khai thác gần như
toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Ngành bao gồm các hệ thống cơ sở
hạ tầng tại các CHK (Nhà ga, đường lăn, sân đỗ...) và hệ thống cơ sở hạ tầng
13
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
phục vụ hoạt động quản lý - điều hành bay (các đài trạm, các trung tâm chỉ huy điều hành bay đường dài, tiếp cận...).
Hàng năm, tổng doanh thu của các DNCI chiếm khoảng 13% tổng doanh
thu toàn Ngành và đóng góp hơn 70% trong tổng thu nộp ngân sách nhà nước
của HKDD Việt Nam.
Năm 2007, được sự đồng ý của của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải đã quyết định chuyển đổi Cụm CHK miền Nam thành Tổng
công ty cảng hàng không miền Nam. Việc chuyển đổi các doanh nghiệp công
ích còn lại đang được tiếp tục thực hiện.
2.
Nhóm các doanh nghiệp vận tải hàng không
a.
Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp vận tải hàng không
Hiện nay, HKDD Việt Nam có 04 doanh nghiệp VTHK: Hãng HK quốc gia
Việt Nam (Vietnam Airlines) thành lập năm 1993; Công ty HK cổ phần Pacific
Airlines thành lập năm 1995; Công ty Bay dịch vụ Việt Nam (VASCO) thành
lập năm 1995 và Tổng công ty Bay dịch vụ (SFC) thành lập năm 1988.
Về mặt tổ chức, trước đây theo Quyết định số 372/QĐ-TTg ngày
04/04/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm tổ chức và hoạt động theo
mô hình Công ty mẹ - Công ty con tại Tổng công ty HKVN thì Vietnam Airlines
là công ty mẹ của Pacific Airlines và VASCO, đồng thời nắm cổ phần chi phối
của Pacific Airlines. Hiện nay Pacific Airlines đang trong quá trình củng cố, tổ
chức lại và Vietnam Airlines không còn nắm giữ cổ phần của hãng này. VASCO
đã chuyển đổi từ đơn vị hạch toán phụ thuộc của Vietnam Airlines thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy là một nhà khai thác máy bay nhưng
Tổng công ty Bay dịch vụ (SFC) lại trực thuộc Quân chủng Phòng không Không quân. SFC không phải là một hãng HK khai thác vận chuyển công cộng
hành khách, hàng hoá.
Về năng lực hoạt động, trong số 04 doanh nghiệp vận chuyển, Vietnam
Airlines và Pacific Airlines là 02 doanh nghiệp vận chuyển HK thường lệ, trong
đó Vietnam Airlines chiếm tỷ trọng vận chuyển chủ yếu (87% vận tải nội địa và
14
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
92% vận tải quốc tế). Pacific Airlines do qui mô nhỏ nên chỉ khai thác một số thị
trường. Hai doanh nghiệp còn lại là VASCO và SFC tập trung vào những thị
trường có tính chuyên biệt. Cụ thể: VASCO chủ yếu thực hiện các chuyến bay
phục vụ một số ngành kinh tế - kỹ thuật (trồng rừng, chụp ảnh...), bay thuê
chuyến, thực hiện các chuyến bay chuyên vận tải hàng hoá, bay vận tải chuyển
phát nhanh và hiện đang từng bước mở rộng sang bay thường lệ trên một số
tuyến bay ngắn trong nước. SFC nhiệm vụ trọng tâm là cung cấp dịch vụ HK
cho tất cả các công ty đang khai thác, thăm dò dầu khí tại Việt Nam. Ngoài ra,
SFC còn thực hiện các chuyến bay chuyên nghiệp và mở rộng sang khai thác
một số đường bay phục vụ du lịch bằng máy bay trực thăng, bay tìm kiếm người
Mỹ mất tích (MIA), chuyên cơ...
Về sản lượng vận chuyển: Năm 2007 sản lượng vận tải hành khách thực
hiện là 9,4 triệu khách, tăng gấp 4 lần so với năm 1995; tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn 1995-2006 đạt gần 14%/năm. Về vận tải hàng hóa, năm 2007 các
doanh nghiệp VTHK Việt Nam chuyên chở được hơn 154 ngàn tấn, tăng hơn 4
lần so với năm 1995; tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt gần 14%.
Về kết quả sản xuất kinh doanh: Tổng doanh thu của các hãng HKVN năm
2007 đạt khoảng 20.000 tỷ VNĐ (tương đương hơn 1 tỷ USD), trong đó doanh
thu của Vietnam Airlines chiếm phần lớn (khoảng 92%); Pacific Airlines chiếm
khoảng 7%; còn lại là doanh thu của VASCO và SFC (chiếm khoảng 1% tổng
doanh thu). Tốc độ tăng trưởng trung bình về doanh thu trong giai đoạn 19952007 của các hãng HKVN là 13%/năm.
Nhìn tổng thể, lực lượng VTHK Việt Nam đã kịp thời chuyển đổi theo
hướng hiện đại hoá, phát triển một cách ổn định, đáp ứng được nhu cầu phát
triển của đất nước, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế,
bước đầu tạo được vị thế nhất định trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, sự phát
triển của lực lượng VTHK vẫn còn một số bất cập sau:
- Một trong những thách thức lớn nhất của các hãng HK, mang đặc điểm
chung của kinh tế Việt Nam, là khả năng tài chính và vốn đầu tư yếu.
15
Qui hoạch phát triển Giao thông vận tải hàng không Việt Nam
Đây là bài toán khó nhất đối với việc đầu tư mua sắm tầu bay, trang
thiết bị kỹ thuật, nâng cấp đào tạo con người, chuyển giao công nghệ
khai thác - bảo dưỡng, và duy trì sức cạnh tranh trên thị trường. Trong
khi đó các hãng hàng không mới thành lập với quy mô còn hạn chế và
chưa chính thức tham gia thị trường vì vậy chưa tạo được sự thay đổi
căn bản về năng lực và chất lượng dịch vụ.
- Tổng công ty HKVN hiện nay (với vai trò chủ đạo là Vietnam Airlines)
trong mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con đã được Thủ tướng
Chính phủ thông qua, là doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm vai trò
chính trong kinh doanh VTHK của Việt Nam. Bên cạnh đó, Tổng công
ty HKVN nắm giữ 100% vốn của Vasco vì vậy có ảnh hưởng quyết
định trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch khai thác
của lực lượng VTHK Việt Nam. Một thời gian dài (hơn 10 năm),
Pacific Airlines hoạt động trong tình trạng không đủ vốn điều lệ, thiếu
chiến lược phát triển dài hạn, kinh doanh manh mún. Trong khi đó các
cổ đông lại thiếu khả năng đảm bảo tài chính hoặc tăng nguồn vốn để
mở rộng kinh doanh cho Pacific Airlines.
- Trong điều kiện lực lượng vận tải còn non trẻ, bên cạnh đó lại phải
thường xuyên đối mặt với áp lực cạnh tranh rất lớn trên thị trường
VTHK quốc tế, cho đến nay Nhà nước vẫn phải duy trì một số chính
sách bảo hộ nhà nước đối với hoạt động của Tổng công ty HKVN dưới
những hình thức như chính sách trao đổi thương quyền; giá, phí ưu đãi
tại CHK và quản lý bay; hỗ trợ tài chính, ưu đãi về thuế... Tuy nhiên,
chính sách bảo hộ của Nhà nước, trong một số trường hợp, lại kìm
hãm sự phát triển của thị trường HKVN, làm hạn chế khả năng huy
động các nguồn tài chính để mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng HK
như SB, đảm bảo hoạt động bay, cũng như gây tình trạng trì trệ, chậm
đổi mới về cơ cấu tổ chức, quản lý, nhân sự của doanh nghiệp. Việc
duy trì chế độ hai giá (khác nhau giữa hãng HKVN và hãng HK nước
16

Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment