Wednesday, March 9, 2016

THẤT NGHIỆP và tác ĐỘNG của nó đến HÀNH VI của NGƯỜI TIÊU DÙNG

Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng hoặc đang tìm kiến việc làm hoặc đang chờ đợi đi làm. Mọi xã hội trong bất kỳ thời điểm nào cũng tồn tại loại thất nghiệp này - Thất nghiệp cơ cấu : Thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các loại lao động ( giữa các nghành,nghề, khu vực). Loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khẳ năng điểu chỉnh chung của thị trường laođộng (tổ chưc đào tạo lại, môi giới) khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở lên trầm trọng và chuyển sang thấtnghiệp dài hạn - Thất nghiệp do thiếu cầu Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên nhân chính ở đây là sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường, nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra trà lan ở khắp mọi, mọi nghành nghề Đây là thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes khi tổng cầu giảm mà Người thất nghiệp là những người hiện chưa có việc nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm. Người có việc là những người đang làm trong các cơ sở kinh tế,văn hoá, xẵ hội,trong lực lượng vũ trang và trong các cơ quan nhà nước. Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm. Nhữn g người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong hiến pháp. Tác động của thất nghiệp tới đời sống kinh tế xã hội - Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định khong bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức lươ ng cân bằng thực tế của thị trường lao động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân bố thu nhập găn liền với kết quả đến lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều quốc gia (chính phủ hoặc công đoàn) do có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, hạn chế sự linh hoạt của tiền lương (ngược lại với sự năng động của thị trường lao động) dẫn đêns một bộ phận lao động mất việc làm. Các phân tích hiện đại về thất nghiệp cũng sử dụng các dạng thất nghiệp này nhưng phân loại chúng hơi khác Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 8 Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng nhau một chút để làm sáng rõ các khía cạnh hành vi và hậu qủa của chúng đối với chính sách của chính phủ. *Thất nghiệp do thiếu cầu hay thất nghiệp theo lý thuyết Keynes xảy ra khi tổng cầu suy giảm, sản xuất đình trệ, công nhân mất việc. nên loại thất nghiệp này gọi là không tự nguyện. Thất nghiệp dạng này được gây ra bởi sự điều chỉnh chậm hơn của thị trường lao động so với sự điều khiển của các cá nhân hoặc của công đoàn. Cách phân chia như trên giúp chúng ta hiểu rõ các chính sách cần thiết của chính phủ để giải quyết các vấn đề thất nghiệp. Chúng ta đã biết rằng trong dài hạn, nền kinh tế có thể từ từ quay trở lại trạng thái hữu nghiệp toàn phần thông qua việc điều chỉnh dần dần tiền lương và giá cả, nên thất nghiệp theo lý thuyết Keynes cuối cùng rồi cũng mất đi. Nhưng trong ngắn hạn, thất nghiệp theo lý thuyết Keynes là một phần trong tổng số thất nghiệp mà chính phủ có thể góp phần giảm bớt bằng cách sử dụng chính sách tài khoá và tiền tệ để làm tăng nhanh tổng cầu chứ không phải ngồi chờ cho tiền lương và giá cả giảm để tăng mức cung ứng thực tế của tiền và giảm lãi xuất. Ngược lại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho chúng ta biết phần trăm con số thất nghiệp mà không thể khử bỏ được chỉ bằng cách phục hồi tổng cầu trở lại mức hữu nghiệp toàn phần. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp trong trạng thái hữu nghiệp toàn phần. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ cần đến các chính sách trong cung tác động đến các động lực trên thị trường lao động. 5.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên: Có hai nhân tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là khoảng thời gian thất nghiệp và tần số thất nghiệp. * Khoảng thời gian thất nghiệp: Giả sử rằng thường xuyên có một lượng người nhất định bổ sung vào đội ngũ tìm kiếm việc làm và nêú mỗi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc thì trong một thời kỳ nào đó số lượng người thất nghiệp trung bình tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp sẽ bị nâng cao. Thời gian chờ đợi nói trên được gọi là “Khoảng thời gian thất nghiệp” và nó phụ thuộc vào: Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 9 Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng - Cách thức tổ chức thị trường lao động. - Cấu tạo nhân khẩu của những người thất nghiệp (tuổi đời, tuổi nghề, ngành nghề ). - Cơ cấu việc làm và khả năng có sẵn việc. Mọi chính sách cải thiện các yếu tố trên sẽ dẫn đến rút ngắn khoảng thời gian thất nghiệp. * Tần số thất nghiệp: Lần số trung bình một người lao động bị thất nghiệp trong thời kỳ nhất định (ví dụ trong một năm bị thất nghiệp hai lần). Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào: - Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp. - Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động. Trong ngắn hạn, khi tổng cầu không đổi nhưng có sự biến động về cơ cấu của nó và khi có tỷ lệ tăng dân số cao thì tần số thất nghiệp bị đẩy lên nhanh. Tần số thất nghiệp lớn có nghĩa là thường xuyên có số thất nghiệp nhiều, tỷ lệ thất nghiệp cao. Hạ tỷ lệ tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số thất nghiệp ở mức thấp. Chú ý rằng, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, loại “dân số hoạt động kinh tế tự do” (buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ) có số người tham gia đáng kể nhưng thu nhập rất thấp và không ổn định. Họ luôn mong muốn tìm kiếm việc làm mới có thu nhập cao hơn và ổn định hơn và như vậy họ là nguồn dự trữ lớn cho sự gia tăng lực lưọng lao động. Ở các nước phát triển khi có trợ cấp thất nghiệp cũng có thể làm tăng tỷ lệ thất nghiệp do có điều kiện thuận lợi để kéo dài thời gian tìm việc Tác động của thất nghiệp tới đời sống kinh tế xã hội tâm lý con người: Công ăn việc làm gắn liền với kinh tế thị trường. Khi không có công ăn việc làm người ta sẽ trở thành thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia đó có trình độ kém phát triển hay phát triển cao. Trước hết, thất nghiệp là đòn rất mạnh giáng vào tâm lý và đời sống của mọi người và từ đó ảnh hưởng mãnh liệt đến đời sống xã hội. Thanh niên mới lớn không có việc làm dễ sinh bi quan, chán nản hoặc hận đời, xung đột với gia đình, dần dần nhiễm các thói hư, tật xấu, làm trầm trọng thêm các tệ nạn xã hội 9 như Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 10 Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng cướp của, mại dâm. Số người ngoài tuổi thanh niên bị thất nghiệp thường là nguyên nhân của các cuộc tan vỡ gia đình, sa sút nhân cách (nghiện hút, lừa đảo trộm cắp) gây suy thoái đời sống xã hội. Thứ hai là trong cơ chế thị trường nhiều thành phần, nếu nhà nước không có các thể chế chặt chẽ, số người không có việc làm sẽ phát triển sống bằng đủ cách, từ việc khai thác bừa bãi tài nguyên (vàng, đá quý, gỗ, than, quặng kim loại) đến các băng đảng buôn lậu, làm hàng giả, trộm cắp đồ cổ. làm hại nền kinh tế, văn hoá và môi trường tự nhiên của đất nước. Thứ ba là do thừa lao động và giải quyết việc làm, nước ta không thể tiến nhanh lên trình độ hiện đại hoá vì càng trang bị hiện đại, càng cần ít lao động.Trong một thời gian khá dài, chúng ta vẫn cần có nhiều việc dùng ít máy móc và nhiều lao động để cố gắng giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Thứ tư là việc gia tăng đội quân thất nghiệp lên quá nhanh khiến nhà nước phải bỏ ra những khoản chi phí lớn để trợ cấp cho những người thất nghiệp, mở các lớp dạy nghề. làm cho ngân sách bị thu hẹp, không thể mở rộng đầu tư, xây dựng các dự án kinh tế khác. Như vậy tác hại của thất nghiệp là rất rõ ràng. Người ta có thể tính toán được sự thiệt hại kinh tế. Đó là sự giảm sút về to lớn về sản lượng đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát nghiêm trọng. Sự thiệt hại về kinh tế do thất nghiệp mang lại ở nhiều nước lớn đến mức không thể so sánh với thiệt hại do tính không hiệu quả của bất cứ hoạt động kinh tế vĩ mô nào khác. CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 11 Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng 1. Tình hình chung: Việt nam là một trong những nước kinh tế đang phát triển, quy mô dân số và mật độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát triển nhanh, trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm gặp nhiều hạn chế, như thiếu vốn sản xuất, lao động phân bổ chưa hợp lý, tài nguyên khác chưa được khai thác hợp lý...Càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu về lao động rất lớn, gây ra sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong toàn quốc. Là nước nông nghiệp đang phát triển, nước ta gần 80% lực lượng lao động tập trung ở nông nghiệp. Thất nghiệp mang tính thời vụ, bán thất nghiệp là phổ biến. Thiếu việc làm ở nông thôn do nguồn lao động ngày một tăng nhanh trong lúc đó diện tích canh tác chỉ có hạn làm cho tỷ lệ diện tích theo đầu người càng giảm. Năng suất lao động hiện còn thấp. Tình trạnh thiếu việc làm đầy đủ còn phổ biến 2. Thất nghiệp ở Việt Nam và thế giới thể hiện qua các giai đoạn: 2.1. Tình hình thất nghiệp của Viêt Nam năm 2009- 2011: “Xu hướng việc làm của thanh niên trên thế giới năm 2010” cho thấy trong năm 2009, trong số 620 triệu thanh niên lao động, tuổi từ 15- 24, thì có tới 81 triệu đã rơi vào cảnh không có việc làm. Đây là mức cao nhất chưa từng có từ trước tới nay trong khi con số này chỉ mới ở mức 78 triệu trong năm 2007. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên đã tăng từ mức 11,9% trong năm 2007 lên 13% trong năm 2009. Xét dưới góc độ tiểu vùng, cuối năm 2009 đã có 12,8 triệu thanh niên thất nghiệp ở Đông Á; 8,3 triệu ở Đông Nam Á & Thái Bình Dương và 15,3 triệu ở Nam Á. Rủi ro khủng khoảng kinh tế tạo nên "‘thế hệ bị đặt bên lề’, bao gồm những thanh niên nằm hoàn toàn ngoài thị trường lao động, không có hi vọng về khả năng làm việc để có một cuộc sống bền vững. “Thế hệ bị đặt bên lề” sẽ là những thanh niên nghèo ở các nước đang phát triển và theo ILO “Khi nhiều thanh niên vẫn tiếp tục trong (hoặc lâm vào) cảnh đói nghèo trong quá trình khủng hoảng thì hi vọng về một động lực thúc đẩy phát triển bởi nỗ lực của thanh niên ở các nước thu nhập thấp vẫn còn bế tắc”. Báo cáo cũng nhận thấy thanh niên thất nghiệp nhạy cảm đối với cuộc khủng hoảng hơn người trưởng thành thất nghiệp và sự phục hồi thị Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 12 Thất nghiệp và tác động của nó đến hành vi của người tiêu dùng trường việc làm cho nam và nữ thanh niên có xu hướng chậm hơn so với thị trường việc làm dành cho người trưởng thành. Tỷ lệ thanh niên trên toàn thế giới có khả năng thất nghiệp cao gần gấp 3 lần so với người trưởng thành, nhưng trong năm 2009 tại Đông Nam Á & Thái Bình Dương mức chênh lệch này là 4,6 lần – mức tồi tệ nhất trên thế giới. Tại Nam Á, tỷ lệ thanh niên có khả năng thất nghiệp cao hơn gấp 3 lần và tại Đông Á là 2,6 lần. Suy giảm kinh tế gây nhiều hệ quả nghiêm trọng đối với tầng lớp thanh niên, đặc biệt khi những người mới gia nhập vào thị trường lao động, càng làm gia tăng thêm nhóm những người thất nghiệp. Theo nghiên cứu của ILO, nguyên nhân dẫn tới tình trạng tỷ lệ thất nghiệp ở tầng lớp thanh niên tăng cao có bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Báo cáo chỉ rõ trong các quốc gia phát triển và các nền kinh tế mới nổi, hiệu ứng của cuộc khủng hoảng đối với thanh niên càng làm tăng thêm tỷ lệ thất nghiệp và các tệ nạn xã hội. Tại các nền kinh tế đang phát triển, nơi sinh sống của gần 90% các thanh niên, thanh niên lại chính là đối tượng dễ bị tác động nhất của tình trạng không có việc làm và nghèo đói. Trong các quốc gia thu nhập thấp, hiệu ứng của cuộc khủng hoảng gây ra còn trầm trọng hơn nữa. Cũng theo báo cáo của ILO, năm 2008 có khoảng 152 triệu người, chiếm khoảng 28% tất cả số thanh niên lao động trên thế giới, đều phải làm việc hay sống trong cảnh cực nghèo, trong các hộ gia đình sống với dưới 1,25 USD/ người/ngày. Đến nay, suy giảm kinh tế vẫn chưa có dấu hiệu chững lại, vì vậy, thất nghiệp, nhất là thất nghiệp trong lực lượng lao động trẻ vẫn chưa thể cải thiện được. Cũng theo báo cáo của ILO về “Việc làm thế giới năm 2012”, đến hết năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp trên toàn thế giới dự kiến sẽ tăng 3%, chiếm 6,1% trong số lực lượng lao động, tương đương 202 triệu người. ILO cũng dự đoán tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên 6,2% vào năm 2013, tương đương với 5 triệu người nữa phải từ bỏ công việc của mình. Tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt cao ở nhóm người trẻ. Theo thống kê, tại châu Âu, gần 2/3 quốc gia đã chịu tình trạng tỷ lệ thất nghiệp tăng dần mỗi năm. Số liệu từ Viện Thống kê quốc gia Tây Ban Nha cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp Tây Ban Nha trong quý 1-2012 tăng lên 24,4%, cao nhất 18 năm qua và cao hơn mức dự báo Nhóm thực hiện: Nhóm 01 - Lớp: CDQT13TH Trang 13

No comments:

Post a Comment

LIÊN HỆ HƯỚNG DẪN DOWNLOAD TÀI LIỆU 0972246583 - 0984985060