Khu
di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh
Thứ Sáu, 03/05/2013 - 09:08
Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh nằm
trong dãy núi đá vôi phía tây bắc thành phố Lạng Sơn (thuộc phường Tam Thanh,
thành phố Lạng Sơn). Với diện tích trên 52ha, nơi đây có những hang động tự
nhiên kỳ thú. Theo tài liệu của các nhà địa chất, đây là vùng thuộc hệ Triat,
phiến thạch, các hang động này được tạo nên từ lâu đời cách ngày nay từ 360 đến
245 triệu năm.

Sơ đồ khu di tích
Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo
Động Nhị Thanh được danh nhân Ngô Thì Sĩ
khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc Trấn Lạng Sơn từ năm 1777 - 1780. Ông
là một bậc hiền thánh đã có công lao to lớn trong việc mở mang ruộng đất, yên
ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian
ngao du sơn thuỷ trong vùng, Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và cho hưng
công xây dựng chùa Tam Giáo, Đình duyệt quân, Thạch miên am, Thụy tuyền hiên,
Trai táo. Ngô Thì Sĩ bắt đầu cho tiến hành việc tôn tạo từ tháng Trọng Thu năm
Kỷ Hợi (tức tháng 5 năm 1779 âm lịch) đến tháng Mạnh Thu (tức tháng 7) cùng năm
thì hoàn thành.
Động Nhị Thanh
Ngô Thì Sĩ là người làng Tả Thanh Oai,
huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đỗ đạt làm quan, để tưởng nhớ đến quê
hương, Ông đã dùng hai chữ Thanh của quê hương đặt cho tên hiệu của mình là:
Nhị Thanh Cư Sĩ và sau này khi phát hiện ra động Nhị Thanh, Ông đã dùng chính
tên hiệu của mình đặt tên cho động, chính vì vậy mà động có tên gọi là động Nhị
Thanh. Tại đây, người xưa đã khắc chân dung Ngô Thì Sĩ trên hốc đá nhỏ ở độ cao
8m trong tư thế Kiết Già ngồi dựa vào vách đá giống như người thật của ông. Đây
là bức chạm khắc chân dung có giá trị nghệ thuật độc đáo được tạo tác vào đá
nhưng không làm mất đi vẻ mềm mại của thân thể (trong bia Ma Nhai Bài Ký Động
Nhị Thanh nói rõ về điều này). Ngày nay nhằm báo đáp công ơn của Ngô Thì Sĩ,
nhân dân trong vùng đã cho xây dựng ban thờ Ông ngay trong động Nhị Thanh.
Ngày 28 tháng 7 năm 1779 âm lịch,
Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội tại nơi đây, trên chùa Tam Giáo thì tế lễ, trong động
Nhị Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7
ngày 7 đêm. Trong bia Ma Nhai “Bài ký động Nhị Thanh” có ghi về việc này như
sau: Đêm đầu mở hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông
Thiên vòng quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm
không còn sợ hãi nữa; lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường
múa rối nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc
thì không thấy đâu nữa nên mọi người dự hội ai cũng cho là lạ. Sau đó Ngô Thì
Sĩ đã cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa động
Nhị Thanh để ghi nhớ hai con vật linh thiêng.
Phía bên phải động Nhị Thanh là chùa Tam Giáo (Tam Giáo Tự). Ngô Thì Sĩ cho rằng đạo
là một mà thôi, Phật - Lão chỉ khác tên nhưng nội dung đều là Nho cả. Khổng Tử,
Lão Tử và Phật Thích Ca tuy tên là ba nhưng thực đạo đều thống nhất là một.
Chính vì vậy Ông đã đưa 3 đạo vào thờ chung một chùa và gọi là chùa Tam Giáo.

Chùa Tam Giáo
Chùa Tam Giáo còn là một loại hình kiến
trúc đặc biệt: Không có mái, không có nhà, ban thờ được đặt trong các hang, hốc
đá làm cho ta có cảm giác thiên tạo với những nhũ đá kỳ vĩ càng tạo nên sự linh
thiêng của ngôi chùa. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Công Đồng,
Cung Tam Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo...
Bên trái chùa Tam Giáo là đường vào động
Nhị Thanh và suối Ngọc Tuyền trong vắt ẩn hiện dưới lùm cây trông thật nên thơ
hữu tình. Phía ngoài động trên cao có dòng chữ Hán "Nhị Thanh Động" với khổ chữ lớn khắc chìm vào vách đá.
Vào phía trong động trên vách bên phải là hệ thống bia Ma Nhai với 20 văn bia
đủ mọi kích thước xen kẽ nhau. Nội dung bia chủ yếu ca ngợi cảnh sắc thiên
nhiên và con người Xứ Lạng, ghi lại việc phát hiện, tạo dựng động Nhị Thanh và
chùa Tam Giáo của các bậc tiền nhân, trong đó có bài "Nhị Thanh động
phú" tức bài phú động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ viết năm 1779 cùng bài thơ
tự tán của Ông khi mới phát hiện và đặt tên cho động Nhị Thanh và các bài viết
của tiến sĩ Lê Hữu Dung - Phụng sai Đốc đồng xứ Lạng Sơn tham hiệp quân vụ năm
1780 cùng nhiều bài viết của các danh nhân thi sĩ khác.
Đi thêm khoảng 100m, qua 2 chiếc cầu kiều
bắc qua những khúc suối quanh co đã mở ra một không gian rộng lớn với nóc hang
cao vút, có cửa thông thiên, phía trong có một thác nước đổ xuống theo khe đá
hoà nhập cùng với suối Ngọc Tuyền chảy ngầm dưới nền Động, tạo nên những âm
thanh huyền bí. Vào năm 1779, Ngô Thì Sĩ viết trong "Bài Ký Động Nhị
Thanh" rằng: "Người
đi thuyền phải cúi rạp xuống, dùng tay vịn vào vách đá đẩy thuyền mới qua được
và do suối chảy dưới nền động nên không thấy dòng suối đâu".
Dưới chân thác nước, Ngô Thì Sĩ cho tôn
một thềm đất cao để làm sân khấu. Tại đây ông đã chọn làm nơi trung tâm vui
chơi giải trí trong ngày mở hội ăn mừng sau khi xây dựng xong chùa Tam Giáo và
cải tạo động Nhị Thanh, sau này nơi đây trở thành nơi hội họp biểu diễn văn
nghệ của nhân dân trong những năm đế quốc Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc nước ta.
Trên nóc động có khe nhỏ ánh mặt trời rọi qua, được người dân gọi là hang
Thông Thiên. Trong “Bài Phú Động Nhị Thanh” có câu:
“Hang gọi tên Thông Thiên
Ánh mặt trời hơi đỏ”
Ngô Thì Sĩ còn cho khắc ba chữ lớn trên
nóc hang là “Hang Thông Thiên”.
Vòng sau cánh gà sân khấu qua khúc ngoặt
là đến hang Giao Long, ta như lạc vào “vườn thạch nhũ”, chỗ rộng nhất
đến 25m, chiều dài hút tầm mắt, trần và nền hang tương đối bằng phẳng có muôn
hình nhũ đá với các hình thù khác nhau: hình con voi phục, hình rùa đang bò…
Nhiều cột đá đứng bên mép suối đỡ lấy trần hang, nhiều nhũ đá rủ, mầm đá cao
thấp như những bức rèm lớn vắt lên hai bên thành động, cảnh sắc thiên nhiên
thật kỳ vĩ. Đi tiếp ra phía sau qua 3 cây cầu là đến cổng sau thông ra bên
ngoài. Từ đây có thể quan sát thấy cửa động Tam Thanh với khoảng cách là 500m.
Động Tam Thanh - Chùa Tam Thanh
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di
tích lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của xứ Lạng với câu ca dao:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em..."
Trong động Tam Thanh có chùa, gọi là chùa
Tam Thanh, còn có tên gọi khác là chùa Thanh Thiền. Trong cuốn "Đại Nam
Nhất Thống Chí" của Quốc Sử quán triều Nguyễn có viết rằng:"Chùa
này nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, cửa mây
nhũ đá trong sạch, không bụi trần. Người địa phương cùng người Minh Hương tô
tượng phật phụng thờ, lại có tên nữa là Chùa Thanh Thiền".
Về niên đại: Qua các tài liệu thư tịch cổ,
các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tam Thanh có từ thời Lê. Tấm bia có niên đại
cổ nhất ở chùa hiện nay là bia "Trùng tu Thanh Thiền động", được chế
tác vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nội dung tấm bia ghi chép về việc trùng tu
di tích, quá có có thể nói rằng chùa này đã có từ trước đó.
Về tên gọi: Theo các nhà nghiên cứu cho
rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ tự của Đạo Giáo, do vậy Tam
Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây là ba cung Thanh cao
nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một vị thần cai quản, đó là
Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo Thiên Quân (Thượng Thanh
Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão Quân). Sau này do ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, Đạo Giáo mờ nhạt trong tâm thức dân chúng địa phương, người ta
đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào thờ ở trong chùa là chính. Hiện nay
trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam Bảo (thờ Phật), Cung Đức Ông, Cung
Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh, Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà), Cung Sơn Trang.
Trong động Tam Thanh hiện nay, các dấu tích của Đạo Giáo chỉ còn lại cái tên
Tam Thanh và ngày lễ hội chính của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng là một biểu
hiện Đạo Giáo khi xưa (một ngày lễ hội lớn trong Đạo Giáo).

Tượng Adiđà trong động Tam Thanh
Chùa Tam Thanh nổi tiếng bởi những giá trị
văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay trong chùa còn có một hệ thống bia Ma
Nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử liệu và văn hoá nghệ thuật do các văn
thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu lại. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di
tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô Phủ, Đô Đốc Thiên Sự Vũ Quận Công Vi
Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê - Vĩnh Trị thứ 2 (1677) bia có tên là:
"Trùng tu Thanh Thiền Động" nội dung bia ghi lại việc hưng công trùng
tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả Ngô Thì Sĩ tạc vào
năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của di
tích. Ngoài ra là hai bài thơ của hai vị quan triều Nguyễn (Đoàn Đình Duyệt và
Tôn Thất Tố) cho tạc khắc khi theo giá vua khải Định năm 1918 ra tuần thú miền
Bắc, nội dung ca ngợi vẻ đẹp danh thắng này. Tại di tích hiện còn có tấm bia
chữ Nôm do tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng Vận viết năm 1924, bia có nội dung
ca ngợi cảnh đep của di tích và được phiên âm với nội dung:
" Xanh xanh xanh ngắt trấn
thành Tây
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
Gió mây đưa đón thoảng làn mây
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ
Lửa ngất non tình đá cũng ngây
Trải mấy tang thương lầm bụi tục
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây"
Chùa Tam Thanh là một ngôi chùa đặc biệt,
được bố trí trong hang đá, không có kiểu kiến trúc giống như những ngôi chùa
khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể thấy hệ thống thờ tự được sắp xếp
theo kiểu "tiền Phật hậu Thánh". Đặc biệt trong chùa còn lưu giữ bức
phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc theo thế đứng vào vách đá
trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo của di tích.
Đi sâu vào trong Động, ở khu trung tâm có
hồ Âm Ty, nước không bao giờ vơi cạn, hồ tuy nhỏ nhưng nước chảy suốt ngày đêm,
trên các trần hang có nhiều nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa với những hình tượng
sinh động kỳ bí: cây Ngô Đồng, Tiên Ông, Sư Tử, Voi... Đi vào bên trong ta bắt
gặp một sân khấu nhỏ, xung quanh có những nhũ đá nhiều hình thù khác nhau do
thiên nhiên tạo nên, có hai cửa thông thiên, ánh sáng từ hai cửa này soi rọi
vào động làm cho những nhũ đá đẹp lạ thường. Cạnh khu vực sân khấu có lối dẫn
lên cổng trời, tại đây ta có thể đứng ngắm nhìn quang cảnh của một vùng nông
thôn quanh khu vực di tích. Phía ngoài cửa động Tam Thanh hiện nay còn có nhà
sàn và mô hình cọn nước, cối giã gạo đặc trưng của người dân tộc Tày Lạng Sơn.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp và của
đế quốc Mỹ xâm lược, động Tam Thanh là nơi cất giữ kho tàng hậu cần của quân
đội ta. Nơi đây đã chứng kiến biết bao những trận đánh oai hùng giữa quân đội
ta với kẻ thù. Tại đây vào ngày 17 tháng 5 năm 1953 các chiến sĩ tự vệ của ta
đã anh dũng chiến đấu bẻ gãy đợt tập kích của quân Pháp nhằm phá huỷ căn cứ,
nguồn tiếp tế hậu cần của ta, bị thất bại quân Pháp phải rút chạy nhưng cũng
tại nơi đây 9 đồng chí của ta đã anh dũng hi sinh. Ngày 22/12/2003 Sở Văn hoá -
Thông tin Lạng Sơn phối hợp với Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc Phòng Việt Nam đ·
xây dựng bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại cửa chùa, đến năm 2008, Bộ
Quốc Phòng lại tiến hành xây dựng thêm nhà bia, để ghi lại truyền thống anh
hùng của bộ đội ta và tuyên truyền giáo dục cho thế hệ mai sau.
Núi Tô Thị
Tượng đá Nàng Tô Thị nằm trong quần thể di
tích Nhị-Tam Thanh đã đi vào truyền thuyết, ca dao của dân tộc ta, tượng Nàng
Tô Thị chờ chồng như một biểu tượng cho lòng chung thuỷ son sắt của người phụ
nữ Việt Nam.
Núi Tô Thị
Truyền thuyết về đá Vọng Phu có nhiều dị bản khác nhau, tuy nhiên
câu chuyện về nàng Tô Thị của người Lạng Sơn có nội dung như sau: Có hai vợ
chồng nhà họ Tô, sinh được một người con trai và một người con gái. Lúc cha mẹ
vắng nhà, người anh nhặt đá ném chim, chẳng may trúng phải đầu em, máu chảy
lênh láng. Người anh sợ quá trốn sang Trung Quốc. Năm 30 tuổi, chàng lần mò về
quê và sinh cơ lập nghiệp tại Lạng Sơn. Sau đó lấy vợ là con một nhà buôn và
sinh được một đứa con. Một hôm chàng chải tóc cho vợ, thấy có vết sẹo trên đầu
vợ, hỏi chuyện thì mới biết vợ chính là em gái mình.
Biết rõ sự thật, người chồng rất đau buồn,
nhưng vẫn không cho vợ biết. Nhân khi nhà vua chiêu mộ lính, người chồng ra ứng
mộ. Trước khi đi người chồng dặn vợ nếu sau 3 năm mà không thấy về thì người vợ
cứ đi lấy chồng khác. Sau đó chồng đi biệt tích không về nữa.
Người vợ ở nhà chờ chồng 3 năm, không thấy
chồng về. Hàng ngày nàng bồng con lên núi, mắt hướng về phía chồng ra đi. Một
hôm bỗng có một cơn mưa và bão lớn, nàng vẫn bồng con đứng đó không về, sau cơn
mưa bão mọi người lên núi thì thấy hai mẹ con đã hóa đá. Từ đó mọi người gọi
hòn đá ấy là nàng Tô Thị vọng phu.
Thành nhà Mạc
Thành nhà Mạc nằm cạnh núi Nàng Tô Thị.
Vào năm 1527, lợi dụng nhà Lê suy yếu, Mạc Đăng Dung đã phế ngôi vua Lê Chiêu
Tông lập nên nhà Mạc, tồn tại gần một thế kỷ. Năm 1592, nhà Lê được Chúa Trịnh
giúp đỡ đánh bật nhà Mạc ra khỏi Thăng Long. Tàn dư nhà Mạc chạy lên các tỉnh
biên giới phía bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và lập căn
cứ để chống lại tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh.
Theo các tài liệu lịch sử ghi chép lúc bấy
giờ, Lạng Sơn có Ngụy Đôn Hầu Mạc Kính Cung chiếm giữ và ra lệnh xây đắp thành
ở núi Vệ Sơn - Đông Kinh (Thành nhà Mạc bây giờ). Thành nhà Mạc ở Lạng Sơn là
một căn cứ quân sự quan trọng, hiểm yếu trấn giữ con đường độc đạo nối giữa
nước ta và Trung Quốc. Suốt cả thập niên cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII.
Những thành lũy này thường lợi dụng địa hình tự nhiên như hai sườn núi tạo nên
một lòng chảo khá rộng, chỉ việc xây thành bịt hai đầu. Đó là đặc điểm riêng
của "Thành nhà Mạc" không giống với thành nhà Lê trước đó và thành
nhà Nguyễn sau này.
Thành được xây dựng bằng đá kiên cố, có lỗ
châu mai. Thành dài 300m, mặt Thành dày 1m, cửa được bố trí thuận tiện cho việc
phòng thủ. Lịch sử còn ghi lại rằng nhờ có Thành này, nhà Mạc đã làm cho nhà Lê
- Trịnh phải khốn đốn hao binh tổn tướng.
Dấu tích hiện nay còn lại gồm 2 đoạn tường
thành xây bằng đá giữa hẻm núi. Đây là một di tích kiến trúc quân sự phản ánh
một thời kỳ chiến tranh tương tàn trong lịch sử Việt Nam. Hiện nay di tích
thành Nhà Mạc đã được đầu tư, tôn tạo và đưa vào phục vụ khách tham quan du
lịch. Đứng trên Thành nhìn về phía đông có thể bao quát được toàn thành phố
Lạng Sơn.
Hàng năm trong quần thể di tích danh thắng
Nhị-Tam Thanh còn tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân như: hội Lồng Tồng
(hội xuống đồng) cầu một năm sản xuất tốt, đời sống được ấm no, hạnh phúc. Đặc
biệt là Lễ hội chùa Tam Thanh – Tam Giáo được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng
âm lịch, với nghi lễ rước kiệu đặc sắc và các hình thức sinh hoạt văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập
phương đến tham dự.
Quần thể di tích
Nhị - Tam Thanh, Núi Tô Thị, thành Nhà Mạc là di sản văn hóa quí báu của nước
ta nói chung, của tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Khu di tích đã được xếp hạng cấp
Quốc Gia từ năm 1962. Khu di tích này luôn được các cấp, các ngành quan tâm bảo
vệ, đầu tư tôn tạo nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu tham quan, hành lễ
của nhân dân trong vùng và du khách thập phương./.
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Câu ca dao lưu truyền từ bao đời ấy cất lên như mời gọi du khách
hãy một lần lên thăm xứ Lạng - mảnh đất địa đầu của Tổ quốc để cùng khám
phá vẻ đẹp hòa quyện của núi và mây, của hang và động, của phố và chợ - một vẻ
đẹp huyền ảo và thơ mộng mà tạo hoá đã ban tặng cho cảnh quan thiên nhiên xứ
Lạng, để rồi đắm mình trong những làn điệu Then, Sli, lượn Tày, Nùng ngọt ngào
đằm thắm, để cùng khám phá những nét văn hoá độc đáo của đồng bào các
dân tộc nơi đây hay để nghiêng ngả say trong men rượu trên đỉnh Mẫu Sơn
hùng vĩ…
· Lạng Sơn – vùng đất “sơn thuỷ hữu
tình”
Một lần đặt chân đến với Lạng Sơn, hẳn bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng
bởi vẻ đẹp nên thơ “sơn thuỷ hữu tình” của cảnh quan thiên nhiên nơi đây. Cùng
với dòng sông Kỳ Cùng chảy ngược về phương Bắc nằm giữa lòng thành phố như một
điểm nhấn ấn tượng là quần thể di tích Nhị - Tam Thanh – “Đệ nhất bát cảnh Xứ
Lạng” và nổi tiếng hơn với biểu tượng về lòng chung thuỷ sắt son của người phụ
nữ Việt Nam – nàng Tô Thị bồng con đứng ngóng chồng nơi ải Bắc…
Chợ Kỳ Lừa
Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn là nơi mua bán t Sơn. Chợ Kỳ lừa mỗi tháng
họp 6 phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch, có hàng hoá sản vật của hầu hết các
tỉnh . Người đến chợ có khi không cốt để mua bán mà chỉ để thăm hỏi, bàn chuyện
làm ăn, Thanh niên nam nữ các dân tộc đến chợ để gặp ban thân, tìm bạn đời qua
các lời ca giao duyên sli, lượn, tìm đến những niềm đồng cảm bao quanh. Tại
chợ, cùng với những màu sắc đa dạng của những hàng thổ cẩm, trang phục, còn có
các món ăn đậm đà hương vị miền núi Xứ Lạng. Mỗi năm Lạng Sơn có Hội chợ Kỳ
lừa, kéo dài từ 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch, là nét sinh hoạt văn hoá cổ
truyền đậm đà bản sác dân tộc. Chợ Kỳ lừa ngày nay đã được tôn tạo và mở cửa cả
ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương, cùng với
cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến
Lạng Sơn
Nàng Tô Thị
|
Nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Nhị, Tam Thanh, truyền
thuyết về Nàng Tô Thị đã đi vào tâm khảm của dân tộc Việt Nam thiên nhiên đã
tạo ra hình tượng người mẹ ôm con đứng chờ chồng trên đỉnh núi cao như một biểu
tượng của lòng thuỷ chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Có từ thời Lê, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng “Chùa Tam
Thanh nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng nay là
phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn. Trải qua bao thăng trầm của thời gian,
lịch sử chùa Tam thanh vẫn giữ được nhiều vẻ đẹp ban đầu hấp dẫn du khách gần
xa bằng vẻ đẹp tự nhiên vốn có của di tích. Trong động có tượng phật A Di Đà
lớn tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ XV là tác phẩm nghệ thuật giá trị cao,hồ Âm
Ti nước trong xanh quanh năm không bao giờ vơi cạn, với muôn trùng nhũ đá thiên
tạo từ ngàn xưa tạo nên những hình thù sinh động, hấp dẫn .
Chùa Tam Thanh
Là Chùa Tam Giáo, trong Động có nhiều tượng thánh bày thờ theo
nhiều hình thức - Động Nhị Thanh gắn liền với danh nhân Ngô Thì Sỹ khi Ông được
cử lên làm quan đốc trấn Lạng Sơn từ năm 1777 - 1780. Trong khoảng thời gian
ngắn, ông đã làm cho bộ mặt Lạng Sơn thay đổi phát triển đi lên về các mặt
Chính trị - Kinh tế, bảo vệ đất nước Đặc biệt về văn hoá, ông đã có công phát
hiện ra 8 cảnh đẹp Xứ Lạng ( Trấn doanh bát cảnh ) trong đó có động Nhị Thanh.
Tháng 5 năm 1779 ông đã thuê thợ khởi công xây dựng tôn tạo khu động. Động bên
trái cao, thế đất tốt hơn làm chùa Tam Giáo thờ 3 vị thánh là Khổng Tử - Lão Tử
- Phật Thích Ca. Động Nhị Thanh ở bên dưới chùa Tam Giáo, là một hang đá tự
nhiên từ cửa trước ra cửa sau dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp tự hiên kỳ vĩ.
Ngày nay, tại di tích này có hệ thống văn bia tạc trên vách đá của các danh
nhân thi sĩ qua lại các thời kỳ lưu lại. Đây là nguồn sử liệu, những tác phẩm
văn học hết sức quí giá, thông tin về lịch sử và di tích Lạng Sơn, nơi đây còn
có tượng truyền thần của Ngô Thì Sĩ tạc cùng năm 1779 rất đẹp và có giá trị mỹ
thuật cao.
· Lạng Sơn - vùng đất đậm đà bản
sắc văn hóa
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới có 253 km đường biên,
có cửa khẩu quốc tế và quốc gia, cửa ngõ giao lưu kinh tế và văn
hóa với nước láng giềng Trung Quốc. Đây là những nền tảng cơ bản
tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá của tỉnh Lạng Sơn. Từ hàng
nghìn năm, bằng ý chí độc lập tự cường dân tộc, nhân dân các dân tộc
trong tỉnh đã phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập
với cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngày nay, những di sản văn hóa
truyền thống Lạng Sơn đã trở thành nét tiêu biểu của nền văn hóa
Việt Nam. Với những lợi thế về địa lý và truyền thống văn hóa sẵn
có, văn hoá Lạng Sơn đã tạo được nét chấm phá riêng, độc đáo và để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách mỗi khi đến với Lạng Sơn.
Thành Nhà Mạc
Lạng Sơn còn có một hệ thống DSVH vô cùng phong phú và đa dạng với
các loại hình như: Di tích ghi dấu chiến công chống giặc ngoại xâm: Ải Chi
Lăng, Đường số 4, khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn, khu du kích Chi Lăng, khu du
kích Ba Sơn; Di tích ghi dấu sự kiện lịch sử: Sân vận động Đông Kinh (TP Lạng
Sơn) - nơi Bác Hồ nói chuyện với đồng bào các dân tộc Lạng Sơn, Di tích Trạm
khí tượng thuỷ văn Tràng Định – nơi Bác Hồ đến thăm năm 1961; Di tích lưu niệm
các nhân vật lịch sử: di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ (Văn Lãng), Nhà
số 8 phố Chính Cai (TP Lạng Sơn), di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri ( Văn
Quan). Rồi các di tích khảo cổ học như: Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Mai Pha, Phai
Vệ, Phia Điểm, Ba Xã, Lũng Yêm… Cho đến các di tích văn hoá - nghệ thuật: Đình
Bắc Sơn, Nông Lục (Bắc Sơn); chùa Tam Giáo, chùa Tam Thanh, chùa Thành, chùa
Tiên (TP Lạng Sơn), chùa Bắc Nga (Cao Lộc), chùa Trung Thiên (Lộc Bình); đền Kỳ
Cùng, đền Cửa Tây, đền Tả Phủ, đền Vua Lê; di tích Đoàn Thành Lạng Sơn, Thành
Nhà Mạc…
Rượu Mẫu Sơn: Rượu mẫu sơn: nổi tiếng thơm ngon, không quá cay nồng mà cũng
không quá nhạt. Rượu Mẫu Sơn mang cái ấm nóng xua tan bầu không khí giá lạnh,
mang cái vị man mát của núi rừng Mẫu Sơn. Rượu được lên men từ lá cây rừng (men
lá) và nguồn nước mạch tinh khiết trên đỉnh núi cao. Sau khi quá trình ủ rượu
đã hoàn thành sẽ được chưng cất ở nhiệt độ cao trên đỉnh Mẫu Sơn trong lành
quanh năm mây mù phủ kín.
Vẻ đẹp của thiên nhiên, tấm lòng của những con người hiền hoà,
chân thật và hết lòng mến khách cùng những nét văn hoá đặc trưng, những lớp lang
văn hoá - lịch sử được kế thừa, bảo tồn, gìn giữ qua nhiều thế hệ các dân tộc
anh em sống chung trên mảnh đất Lạng Sơn như đang mời gọi bạn hãy một lần đến
với Lạng Sơn để cùng cảm nhận và khám phá.
Chùa Tiên nằm
trên một ngọn núi
|
Hang động chùa Tiên và Giếng Tiên: Cách cầu Kỳ
cùng khoảng nửa cây số, trên đường đi Mai Pha, có núi đá hình voi nhô lên giữa
cánh đồng. Đó là núi đại tượng, nơi đây có động Chùa Tiên, là một trong bát
cảnh mà Ngô Thì Sĩ đã ghi nhận. Động Chùa Tiên Nằm ngang chừng núi, lối lên có
64 bậc, cửa phụ quay về hướng đông, có cửa thông hiên, có đường xuống hồ thu
thuỷ.
Chùa Tiên có tên chữ Song Tiên tự, do dân làng
Phai Luông lập thời vua Lê Thánh Tông trên núi Đại Tượng cạnh giếng Tiên. Sau
này chùa bị hư, người ta mới chuyển vào động núi Đại Tượng như hiện nay.
Chùa Tiên phối thờ Phật, Mẫu và Đức Thánh
Trần, có bố cục kiểu “tiền Phật hậu Thánh” gồm cung tam bảo thờ Phật phía ngoài
và cung thờ Mẫu, Đức Thánh Trần ở phía trong. Nơi đây còn lưu giữ một hệ thống
văn bia phong phú của các văn nhân, thi sĩ, trong đó có bài “Trấn doanh bát
cảnh” do Ngô Thì Sỹ cảm tác ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên xứ Lạng. Hàng năm
chùa Tiên mở hội ngày 18 tháng Giêng âm lịch, cùng với chùa Nhị Thanh – Tam
Giáo (15 – 17 tháng Giêng âm lịch) và Tam Thanh (15 tháng Giêng âm lịch) tạo
nên một dịp trẩy hội đông vui.
Đằng sau núi Voi – Chùa tiên ở lưng chừng núi
trên mặt bằng đá rộng đó là Giếng tiên, miệng giếng rộng 20cm có mạch nước quý
chảy quanh năm.
Đền Kỳ Cùng
Nằm ở phường Vĩnh Trại, bên
phía bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đền được coi là nơi linh thiêng, vốn là nơi thờ thần
Giao Long (thần sông nước) với nhiệm vụ giữ cho quanh năm mưa thuận gió hòa.
Lịch sử của Đền còn gắn với
truyện kể về quan lớn Tuần Tranh, được triều đình nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng
Sơn, trong thời gian ở tại Lạng Sơn, ông chỉ huy đánh giặc bị thua, quân lính
thiệt mạng rất nhiều, ông lại bị vu cáo vào tội dâm ô, đành nhảy xuống sông Kỳ
Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sạch, ông được thần
linh hóa thành đôi rắn (ông Cộc – ông Dài) làm vị thần sông ngự tại đền Kỳ
Cùng. Về sau, nỗi oan khuất của ông được một vị tướng nhà Lê là Tả đô đốc Hán
quận công Thân Công Tài (được thờ tại đền Tả Phủ) chứng minh, hóa giải. Vì vậy
mới có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến ngày 27 tháng
giêng âm lịch giống như đền Tả Phủ), phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh
lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài. Điều này giải thích cho sự
liên quan mật thiết của hai lễ hội đền Kỳ Cùng – T Phủ.
Trong đền có bến đá Kỳ Cùng
là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong “Trấn doanh bát cảnh” xưa
Ngô Thì Sỹ gọi với cái tên Kỳ Cùng thạch độ. Sở dĩ như vậy là vì theo sử sách
chép lại, ngày xưa bất cứ cuộc hành quân hay cuộc hành trình nào của các sứ giả
qua lại Trung Quốc cũng đều phải qua nơi nay. Thuyền bè san sát, hai bờ sông
lúc nào cũng tấp nập đông đúc vì dân chúng hoặc quan quân hội tụ. Khúc sông Kỳ
Cùng ở đoạn này có nhiều tảng đá chắn ngay giữa dòng sông, đá lô nhô trên mặt
nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông, lúc lên lúc xuống tạo thành những lớp
sóng tung bọt trắng xóa, trào khắp một dải tràng giang, trông rất ngoạn mục.
Tương truyền các sứ thần của Việt Nam mỗi lần đi sứ sang Trung Quốc đều dừng
chân tại bến đá, sửa soạn lễ vật lên thắp hương tại đền Kỳ Cùng, cầu cho chuyến
đi được bình an, công thành danh toại.
|
Hoàng hôn bên bờ
sông Kỳ Cùng
|
Ngày nay Cầu Kỳ Cùng được xây ở ngay cạnh bến
đá, nối hai bờ Bắc và Nam sông Kỳ Cùng, chia Thành phố Lạng Sơn thành hai khu
vực, bên bờ Bắc là nơi sinh hoạt, kinh doanh buôn bán của nhân dân thành phố
Lạng Sơn, bên bờ nam là khu vực tập trung các cơ quan hành chính của Lạng Sơn
Thành nhà Mạc
Thành Nhà Mạc nằm trong khu
vực phường Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn, là di tích kiến trúc quân sự phản ánh
thời kỳ phong kiến Việt Nam. Theo những tư liệu còn lại thì thành là một căn cứ
quân sự hiểm yếu chắn con đường độc đạo nối từ Ải Bắc xuống phía Nam đo Mạc
Kính Cung xây dựng vào thế kỷ XVI làm căn cứ chống lại Lê – Trịnh.
Dấu tích hiện nay còn lại
gồm 2 đoạn tường dài khoảng 300m, mặt thành rộng khoảng 1m, xây bằng những khối
đá lớn giữa hẻm núi, tuy được gia cố, trùng tu, nhưng vẫn giữ được dấu vết
hoang phế điêu tàn, để khi đứng trong bóng tịch dương nhìn ngắm phong cảnh có
một chút bâng khuâng nghĩ về lối xưa xe ngựa.
Đoạn đường từ chân đồi lên
cổng thành giờ là nhiều bậc cấp thẳng tắp, ngước trông cổng thành như xa hun
hút, nhỏ bé lại. Lên đến nơi thấy khung cảnh thật thoáng đãng. Đứng bên trong
nhìn ra càng nhận rõ thế đắc địa của cuộc đất, trước mặt là thung lũng ruộng
lúa, rồi đến làng xóm sầm uất, tiếp đến là núi, quần sơn nối tiếp trùng trùng
điệp điệp.
Những đoạn thành đứt quãng
không đều nhau, cao thấp không bằng nhau, mặt đá phủ rêu màu đen pha một chút
xám. Đất bên dưới thì màu đỏ sậm lẫn một ít sạn sỏi nhỏ.
Động Nhị Thanh – Chùa
Tam Giáo
Động Nhị Thanh được danh
nhân Ngô Thì Sĩ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc Trấn Lạng Sơn từ năm
1777 – 1780. Ông là một bậc hiền thánh đã có công lao to lớn trong việc mở mang
ruộng đất, yên ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất.
Trong thời gian ngao du sơn thuỷ trong vùng, Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh
và cho hưng công xây dựng chùa Tam Giáo, Đình duyệt quân, Thạch miên am, Thụy
tuyền hiên, Trai táo. Ngô Thì Sĩ bắt đầu cho tiến hành việc tôn tạo từ tháng
Trọng Thu năm Kỷ Hợi (tức tháng 5 năm 1779 âm lịch) đến tháng Mạnh Thu (tức
tháng 7) cùng năm thì hoàn thành.
Ngô Thì Sĩ là người làng Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đỗ đạt làm quan, để tưởng nhớ
đến quê hương, Ông đã dùng hai chữ Thanh của quê hương đặt cho tên hiệu của
mình là: Nhị Thanh Cư Sĩ và sau này khi phát hiện ra động Nhị Thanh, Ông đã
dùng chính tên hiệu của mình đặt tên cho động, chính vì vậy mà động có tên gọi
là động Nhị Thanh. Tại đây, người xưa đã khắc chân dung Ngô Thì Sĩ trên hốc đá
nhỏ ở độ cao 8m trong tư thế Kiết Già ngồi dựa vào vách đá giống như người thật
của ông. Đây là bức chạm khắc chân dung có giá trị nghệ thuật độc đáo được tạo
tác vào đá nhưng không làm mất đi vẻ mềm mại của thân thể (trong bia Ma Nhai
Bài Ký Động Nhị Thanh nói rõ về điều này). Ngày nay nhằm báo đáp công ơn của
Ngô Thì Sĩ, nhân dân trong vùng đã cho xây dựng ban thờ Ông ngay trong động Nhị
Thanh.
Ngày 28 tháng 7 năm 1779 âm
lịch, Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội tại nơi đây, trên chùa Tam Giáo thì tế lễ,
trong động Nhị Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác
trong 7 ngày 7 đêm. Trong bia Ma Nhai “Bài ký động Nhị Thanh” có ghi về việc này
như sau: Đêm đầu mở hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông
Thiên vòng quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm
không còn sợ hãi nữa; lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường
múa rối nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc
thì không thấy đâu nữa nên mọi người dự hội ai cũng cho là lạ. Sau đó Ngô Thì
Sĩ đã cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa động
Nhị Thanh để ghi nhớ hai con vật linh thiêng.
|
Chùa Tam Giáo
|
Phía bên phải động Nhị
Thanh là chùa Tam Giáo (Tam Giáo Tự). Ngô Thì Sĩ cho rằng đạo là một mà
thôi, Phật – Lão chỉ khác tên nhưng nội dung đều là Nho cả. Khổng Tử, Lão Tử và
Phật Thích Ca tuy tên là ba nhưng thực đạo đều thống nhất là một. Chính vì vậy
Ông đã đưa 3 đạo vào thờ chung một chùa và gọi là chùa Tam Giáo.
Chùa Tam Giáo còn là một
loại hình kiến trúc đặc biệt: Không có mái, không có nhà, ban thờ được đặt
trong các hang, hốc đá làm cho ta có cảm giác thiên tạo với những nhũ đá kỳ vĩ
càng tạo nên sự linh thiêng của ngôi chùa. Hiện nay trong chùa có các cung thờ
như: Cung Công Đồng, Cung Tam Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo…
Bên trái chùa Tam Giáo là
đường vào động Nhị Thanh và suối Ngọc Tuyền trong vắt ẩn hiện dưới lùm cây
trông thật nên thơ hữu tình. Phía ngoài động trên cao có dòng chữ Hán “Nhị
Thanh Động” với khổ chữ lớn khắc chìm vào vách đá. Vào phía trong động trên
vách bên phải là hệ thống bia Ma Nhai với 20 văn bia đủ mọi kích thước xen kẽ
nhau. Nội dung bia chủ yếu ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người Xứ Lạng,
ghi lại việc phát hiện, tạo dựng động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo của các bậc
tiền nhân, trong đó có bài “Nhị Thanh động phú” tức bài phú động Nhị Thanh của
Ngô Thì Sĩ viết năm 1779 cùng bài thơ tự tán của Ông khi mới phát hiện và đặt
tên cho động Nhị Thanh và các bài viết của tiến sĩ Lê Hữu Dung – Phụng sai Đốc
đồng xứ Lạng Sơn tham hiệp quân vụ năm 1780 cùng nhiều bài viết của các danh
nhân thi sĩ khác.
Đi thêm khoảng 100m, qua 2
chiếc cầu kiều bắc qua những khúc suối quanh co đã mở ra một không gian rộng
lớn với nóc hang cao vút, có cửa thông thiên, phía trong có một thác nước đổ
xuống theo khe đá hoà nhập cùng với suối Ngọc Tuyền chảy ngầm dưới nền Động,
tạo nên những âm thanh huyền bí. Vào năm 1779, Ngô Thì Sĩ viết trong “Bài Ký
Động Nhị Thanh” rằng: “Người đi thuyền phải cúi rạp xuống, dùng tay vịn vào
vách đá đẩy thuyền mới qua được và do suối chảy dưới nền động nên không thấy
dòng suối đâu”.
Dưới chân thác nước, Ngô
Thì Sĩ cho tôn một thềm đất cao để làm sân khấu. Tại đây ông đã chọn làm nơi
trung tâm vui chơi giải trí trong ngày mở hội ăn mừng sau khi xây dựng xong
chùa Tam Giáo và cải tạo động Nhị Thanh, sau này nơi đây trở thành nơi hội họp
biểu diễn văn nghệ của nhân dân trong những năm đế quốc Mỹ ném bom bắn phá miền
Bắc nước ta. Trên nóc động có khe nhỏ ánh mặt trời rọi qua, được người dân gọi
là hang Thông Thiên. Trong “Bài Phú Động Nhị Thanh” có câu:
“Hang gọi tên
Thông Thiên
Ánh mặt trời hơi đỏ”
Ánh mặt trời hơi đỏ”
Ngô Thì Sĩ còn cho khắc ba
chữ lớn trên nóc hang là “Hang Thông Thiên”.
Vòng sau cánh gà sân khấu
qua khúc ngoặt là đến hang Giao Long, ta như lạc vào “vườn thạch nhũ”, chỗ rộng
nhất đến 25m, chiều dài hút tầm mắt, trần và nền hang tương đối bằng phẳng có
muôn hình nhũ đá với các hình thù khác nhau: hình con voi phục, hình rùa đang
bò… Nhiều cột đá đứng bên mép suối đỡ lấy trần hang, nhiều nhũ đá rủ, mầm đá
cao thấp như những bức rèm lớn vắt lên hai bên thành động, cảnh sắc thiên nhiên
thật kỳ vĩ. Đi tiếp ra phía sau qua 3 cây cầu là đến cổng sau thông ra bên
ngoài. Từ đây có thể quan sát thấy cửa động Tam Thanh với khoảng cách là 500m.
Động Tam Thanh – Chùa
Tam Thanh
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích
lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của xứ Lạng với câu ca dao:
“Đồng Đăng có
phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Trong động Tam Thanh có
chùa, gọi là chùa Tam Thanh, còn có tên gọi khác là chùa Thanh Thiền. Trong
cuốn “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử quán triều Nguyễn có viết rằng: “Chùa
này nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, cửa mây
nhũ đá trong sạch, không bụi trần. Người địa phương cùng người Minh Hương tô
tượng phật phụng thờ, lại có tên nữa là Chùa Thanh Thiền”.
Về niên đại: Qua các tài
liệu thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tam Thanh có từ thời Lê. Tấm
bia có niên đại cổ nhất ở chùa hiện nay là bia “Trùng tu Thanh Thiền động”,
được chế tác vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nội dung tấm bia ghi chép về việc
trùng tu di tích, quá có có thể nói rằng chùa này đã có từ trước đó.
Về tên gọi: Theo các nhà
nghiên cứu cho rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ tự của Đạo Giáo,
do vậy Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây là ba cung
Thanh cao nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một vị thần cai
quản, đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo Thiên Quân
(Thượng Thanh Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão Quân). Sau này do
ảnh hưởng của nhiều yếu tố, Đạo Giáo mờ nhạt trong tâm thức dân chúng địa
phương, người ta đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào thờ ở trong chùa là
chính. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam Bảo (thờ Phật), Cung
Đức Ông, Cung Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh, Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà), Cung
Sơn Trang. Trong động Tam Thanh hiện nay, các dấu tích của Đạo Giáo chỉ còn lại
cái tên Tam Thanh và ngày lễ hội chính của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng là
một biểu hiện Đạo Giáo khi xưa (một ngày lễ hội lớn trong Đạo Giáo).
Chùa Tam Thanh nổi tiếng
bởi những giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay trong chùa còn có
một hệ thống bia Ma Nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử liệu và văn hoá
nghệ thuật do các văn thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu lại. Tấm bia có
niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô Phủ, Đô Đốc
Thiên Sự Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê – Vĩnh Trị thứ 2 (1677)
bia có tên là: “Trùng tu Thanh Thiền Động” nội dung bia ghi lại việc hưng công
trùng tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả Ngô Thì Sĩ
tạc vào năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của
di tích. Ngoài ra là hai bài thơ của hai vị quan triều Nguyễn (Đoàn Đình Duyệt
và Tôn Thất Tố) cho tạc khắc khi theo giá vua khải Định năm 1918 ra tuần thú
miền Bắc, nội dung ca ngợi vẻ đẹp danh thắng này. Tại di tích hiện còn có tấm
bia chữ Nôm do tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng Vận viết năm 1924, bia có nội
dung ca ngợi cảnh đep của di tích và được phiên âm với nội dung:
“Xanh xanh
xanh ngắt trấn thành Tây
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
Gió mây đưa đón thoảng làn mây
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ
Lửa ngất non tình đá cũng ngây
Trải mấy tang thương lầm bụi tục
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây”
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
Gió mây đưa đón thoảng làn mây
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ
Lửa ngất non tình đá cũng ngây
Trải mấy tang thương lầm bụi tục
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây”
Chùa Tam Thanh là một ngôi
chùa đặc biệt, được bố trí trong hang đá, không có kiểu kiến trúc giống như
những ngôi chùa khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể thấy hệ thống thờ
tự được sắp xếp theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Đặc biệt trong chùa còn lưu
giữ bức phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc theo thế đứng vào
vách đá trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo của di tích.
Đi sâu vào trong Động, ở
khu trung tâm có hồ Âm Ty, nước không bao giờ vơi cạn, hồ tuy nhỏ nhưng nước
chảy suốt ngày đêm, trên các trần hang có nhiều nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa
với những hình tượng sinh động kỳ bí: cây Ngô Đồng, Tiên Ông, Sư Tử, Voi… Đi
vào bên trong ta bắt gặp một sân khấu nhỏ, xung quanh có những nhũ đá nhiều
hình thù khác nhau do thiên nhiên tạo nên, có hai cửa thông thiên, ánh sáng từ
hai cửa này soi rọi vào động làm cho những nhũ đá đẹp lạ thường. Cạnh khu vực
sân khấu có lối dẫn lên cổng trời, tại đây ta có thể đứng ngắm nhìn quang cảnh
của một vùng nông thôn quanh khu vực di tích. Phía ngoài cửa động Tam Thanh
hiện nay còn có nhà sàn và mô hình cọn nước, cối giã gạo đặc trưng của người
dân tộc Tày Lạng Sơn.
Chợ Đông Kinh & chợ
đêm Kỳ Lừa
Chợ Đông Kinh là trung tâm
mua bán lớn nhất thành phố Lạng Sơn. Chợ Đông Kinh với 3 tầng, tầng 1 bán đồ
điện tử, tầng 2 bán hàng tạp hóa, tầng 3 bán hàng thời trang. Trong lịch sử đô
thị cổ Lạng Sơn khu vực chợ Đông Kinh thuộc “Bạc dịch trường Vĩnh Bình” vốn là
nơi trao đổi thương mại của thương gia hai nước Việt – Trung. Ngày nay chợ được
xây dựng khang trang, cảnh mua bán tấp nập người xe bên dòng Kỳ Cùng uốn lượn.
Đây là địa điểm được nhiều du khách lựa chọn khi đến Lạng Sơn.
Chợ Đêm Kỳ Lừa mở cửa từ 8h
đến 22h chuyên bán các loại hàng hóa phục vụ khách du lịch, không chỉ thuần túy
là nơi giao lưu trao đổi hàng hóa mà còn là nơi gặp gỡ kết bạn thể hiện bằng
những nét văn hóa cổ truyền một cách sống động. Chợ mang đậm bản sắc miền biên
cương sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách khi đến với Lạng Sơn.
Đoàn Thành Lạng Sơn
Thành Lạng Sơn là một di
tích kiến trúc quân sự nằm ở phường Chi Lăng – Thành phố Lạng Sơn. Thời phong
kiến, đây là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Lạng Sơn. Đoàn thành có
vị trí quan trọng trong việc trấn giữ phòng thủ quân sự nơi cửa ngõ đất nước,
nằm trong thung lũng thành phố Lạng Sơn, xung quanh có núi cao bao bọc. Chu vi
trong của thành là 219 tầm 2 xích 5 thốn, chu vi ngoài là 586 tầm 8 xích 7 thốn
(theo đơn vị đo lường cũ). Mặt Đông rộng 153 trượng 7 xích, mặt Tây rộng 140
trượng, mặt Nam rộng 273 trượng và mặt Bắc rộng 292 trượng. Qua những thăng
trần lịch sử, Đoàn Thành đã bị phá huỷ khá nhiều, vết tích còn lưu lại rõ nét
là cổng thành và bức tường thành phía Nam dài hàng trăm mét còn khá nguyên vẹn,
móng xây bằng đá xanh và cổng xây vòm cuốn. Chiều dài từ chân đến đỉnh là 5m,
rộng 4m.
Một số đơn vị
đo lường cổ có giá trị như sau
1 trượng bằng khoảng 4m
1 xích bằng khoảng 0.32m
1 tầm = 5 xích(thước) bằng khoảng 1.5m
1 thốn = 0.1 thước bằng khoản 0.15m
1 xích bằng khoảng 0.32m
1 tầm = 5 xích(thước) bằng khoảng 1.5m
1 thốn = 0.1 thước bằng khoản 0.15m
Trải qua thời gian, thành
bị phá hủy gần hết. Dấu vết còn lại của thành là một cổng thành cổ, cây cối mọc
um tùm mà khi du khách tới Lạng Sơn, dạo qua những dãy phố nhỏ yên tĩnh của khu
hành chính sẽ nhìn thấy.
Núi Phai Vệ
Di tích khảo cổ học núi
Phai Vệ hiện thuộc phường Vĩnh Trại, có vị trí trung tâm, phía Đông thành phố
Lạng Sơn. Đây là một trong những di tích khảo cổ học được nhắc đến nhiều cùng
với các di tích khảo cổ khác ở các huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Văn Quan, Chi Lăng,
Hữu Lũng,… Nơi đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết cổ sinh vật. Năm 1914,
người Pháp đã từng đặt tên cho đường qua núi Phai Vệ là Đại lộ hang động. Hiện
nay, du khách dễ dàng nhìn thấy di tích này khi đến tham quan, du lịch mua sắm
ở chợ Đông Kinh
HUYỆN CAO LỘC
Cửa khẩu quốc tế
Hữu Nghị Quan
Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị là một cửa khẩu quốc
tế của Việt Nam nằm trên biên giới Việt Nam – Trung Quốc, điểm nối tuyến đường
cao tốc Nam Ninh – Hà Nội, là cầu nối quan trọng trong phát triển quan hệ kinh
tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, phía Việt Nam đã
cắm cột mốc 1116 và phía Trung Quốc cắm cột mốc 1117, đây đều là các cột mốc cỡ
lớn, có gắn Quốc huy của hai nước. Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị nằm trên Quốc lộ
1A, cách thành phố Lạng Sơn 17 km về phía Bắc.
Xem thêm bài
viết : Các cửa khẩu giữa Việt Nam –
Trung Quốc
Đền Mẫu Đồng Đăng
Đền Mẫu Đồng Đăng (Đồng
Đăng linh tự), là nơi thờ Phật và Mẫu Thượng ngàn nằm trên địa bàn thị trấn
Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
Trong dân gian lưu truyền,
đền Mẫu chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Mẫu Liễu Hạnh (một trong Tứ bất
tử) và Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan), sau khi ông đi sứ từ Trung Quốc trở về.
Tục truyền, Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, tên là Quỳnh Hoa, do có duyên nợ
với trần gian nên bà thường hiển linh giúp đỡ người dân nên được triều đình
(thời Hậu Lê) sắc phong là công chúa Liễu Hạnh và phong làm Thượng đẳng Phúc
thần. Trong những dịp hay ngao du sơn thủy đến các thắng cảnh của nhiều vùng,
bà đã gặp gỡ, họa thơ với danh sĩ Phùng Khắc Khoan, trong đó có lần gặp nhau
tại Đồng Đăng linh tự.
Đồng Đăng linh tự gồm có 5
gian thờ: Phía trong cùng là Tam bảo, nơi thờ Phật Chuẩn Đề và Phật bà Quan Âm;
gian kế tiếp phía ngoài là Tam tòa Thánh mẫu, nơi thờ Mẫu đệ nhất Thượng thiên,
Mẫu đệ nhị Thượng ngàn và Mẫu đệ tam Thoải phủ; tiếp theo là gian thờ Sơn trang
gồm Chúa Thượng ngàn ở giữa, 2 bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và Chầu Chín; gian giữa
chính điện ngoài cùng thờ Chúa Liễu, hai bên là Chầu Bơ và Chầu Lục; gian bên
trái thờ Chầu đệ tứ Khâm sai, ngoài ra còn thờ quan Trần Triều Đức Đại Vương,
các thánh cô, thánh cậu…
Hàng năm, vào ngày mùng 10
tháng giêng, tại đền Mẫu lại diễn ra lễ hội đầu xuân của các dân tộc xứ Lạng.
Lễ hội Đồng Đăng trước đây được gọi là hội Lồng Tồng (xuống đồng). Trong lễ hội
có các trò chơi như múa sư tử, võ dân tộc, thi đấu thể dục thể thao.
Bia Thủy Môn Đình
Nhà bia Thủy Môn Đình là một di
tích có nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Hiện di tích nằm ở vị trí đầu
đường vào thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Nếu tính theo chiều
từ thành phố Lạng Sơn lên thì di tích nằm ở bên phía tay phải, cách mặt đường
1A chưa đầy 50m. Bia Thủy Môn Đình là một tấm bia cổ, có niên hiệu Cảnh Trị thứ
18 (1670) ghi công của Hữu Đô Đốc Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc, có công
trạng, sự nghiệp gắn liền với vùng đất, quê hương Xứ Lạng.
Bia được tìm thấy khá dày dặn,
có bệ, cao hơn đầu người. Khi được phát hiện, bia nằm giấu kín trong đám bụi
cây. Mặt lưng bia có ba chữ Thủy Môn Đình rất to. Thủy Môn Đình do quan Đô Tổng
binh, Bắc quân Đô đốc phủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị bách niên
dưới thời Lê Trịnh. Mở đầu bia viết đại ý “ta nhờ tổ tông tích thiện, nên từ
lúc còn trẻ đã được theo vua giết giặc lập công, được phong chức giữ nơi bờ
cõi, cửa ngõ của sự bang giao, nơi hai nước có sứ giả đi lại và văn thư giao
dịch. Nhờ gặp thời Hoàng Lê thịnh trị, vạn đẹp của Chúa, thu phục được “bát
man”, được giao trọng trách trông giữ miền quan ải, trách nhiệm nặng nề,
vì thế lập bia để con cháu trông gương mà bắt chước, báo đền ơn vua, lộc nước”.
Ở giữa bia có một bài Minh, tức là bài tóm tắt chủ ý của bia dưới dạng câu ngắn có vần: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”. Có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Vách đá giữa trời đất, quận sâu nơi biên giới. Ấp thiêng xứ Đồng Đăng.
Ở giữa bia có một bài Minh, tức là bài tóm tắt chủ ý của bia dưới dạng câu ngắn có vần: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”. Có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Vách đá giữa trời đất, quận sâu nơi biên giới. Ấp thiêng xứ Đồng Đăng.
Sự có mặt của hai chữ Việt Nam
trong tấm bia biên giới có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì vị trí tấm bia
này chỉ cách ải Nam Quan (nay là cửa quan Hữu Nghị) có 2 km. Nó lại dựng lên
bởi “Bắc quân Đô đốc xứ Lạng Sơn” nên tấm bia có ý nghĩa hành chính rõ rệt. Như
vậy từ hơn 3 thế kỷ trước đây, tên gọi Việt Nam đã chính thức nằm trên
tấm bia hiên ngang nơi quan ải.
Khu du kích Ba Sơn
|
Một trong những
ngôi nhà là pháo đài tại Bản Ranh, xã Xuất Lễ
|
Khu du kích Ba Sơn bao gồm
các xã Cao Lâu, Xuất Lễ, Công Sơn, Mẫu Sơn huyện Cao Lộc, trong đó Xuất Lễ là
trung tâm của Khu du kích. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân Việt Nam, Ba Sơn anh dũng là tên gọi ca ngợi về Khu du kích mà ở đó, mỗi
chiến công gắn liền với thắng lợi của quân và dân Lạng Sơn trên con đường lửa
số 4, đẩy quân viễn chinh tới thảm bại tại mặt trận biên giới 1950. Góp phần
quan trọng giải phóng hoàn toàn Lạng Sơn.
Chùa Bắc Nga
Chùa Bắc Nga tọa lạc tại Xã Gia Cát, huyện Cao
Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Chùa Bắc Nga có tên chữ “Tiên nga phật tự” hay còn gọi là
Chùa Tiên Nga (Tiên Nga tự). Chùa nằm trên sườn đồi rộng thoải, lưng tựa núi,
mặt hướng ra quốc lộ 4B và dòng sông Kỳ Cùng uốn lượn, tạo nên thế “Rồng chầu
hổ phục” theo thuyết phong thủy. Ngôi chùa xưa nhỏ bé, nằm dưới tán lá cổ thụ
um tùm.
Xem
tiếp : Các địa điểm du lịch ở Lạng Sơn (Phần 2)
Tìm trên Google : các địa điểm du lịch lạng sơn, đi đâu ở lạng sơn,
chơi gì ở lạng sơn, danh lam thắng cảnh lạng sơn, danh thắng lạng sơn, các địa
điểm phượt lạng sơn, các di tích ở lạng sơn, cảnh đẹp ở lạng sơn, cac dia
diem du lich lang son, di dau o lang son, choi gi o lang son, danh lam thang
canh lang son, danh thang lang son, cac dia diem phuot lang son, cac di tich o
lang son, canh dep o lang son

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở Đà
Lạt
Từng được ví như một “tiểu Paris giữa
miền nhiệt đới”, Đà Lạt mở lòng mình với du khách bằng những
thắng cảnh tuyệt đẹp, bằng các di tích
lịch sử ngàn đời còn lưu giữ mãi đến ngày hôm nay. Cứ mỗi lần rời
Đà Lạt, người đi lại mang theo một chút
lưu luyến, chút âm hưởng, và một cảm giác nao nao… gói gọn
vào một góc tâm hồn…
HỒ THAN THỞ
Hồ Than Thở nằm cách trung tâm Đà lạt
khoảng 6km về hướng Đông Nam, trên đường đi Chi Lăng-Thái
Phiên. Thoạt đầu nơi đây chỉ là một hồ
nhỏ, không rõ từ lúc nào được gọi là Hồ Than Thở. Về sau người
Pháp đã làm đập chặn nước tạo thành hồ
và đặt tên là Lac des Soupirs, mãi đến năm 1956 hồ mới được
gọi lại theo tên cũ.
Năm 1975, sau khi hòa bình lập lại, có
lẽ cho rằng cái tên Than Thở ủy mị quá, đã có lúc hồ được đổi tên
thành Sương Mai. Nhưng trong lòng người
dân Đà lạt cũng như du khách đều lưu luyến tên cũ, không gọi
Sương Mai nên đến năm 1990, chính quyền
địa phương đã cho sử dụng lại tên cũ của hồ.
Hồ Than Thở còn là nơi gắn liền với câu
chuyện tình điễm lệ làm thổn thức lòng người. Đó là chuyện kể
về mối tình của đôi trai gái, thường hẹn
hò nhau bên bờ suối. Chàng trai lên đường tòng quân đánh giặc.
Nơi quê nhà, cô gái nhận được tin chàng
tử trận, liền quyên sinh theo người mình yêu. Không ngờ, chàng
trai thắng trận trở về, giữ vẹn lòng
chung thủy chàng cũng chết theo cô gái. Từ đó, hồ được mang tên là
hồ Than Thở và cái tên ấy đã tồn tại từ
200 năm nay.
Ngày nay hồ Than Thở được đầu tư tôn tạo
thành một công viên giải trí với những bồn hoa thảm cỏ được
chăm tỉa công phu, những trò chơi đu
quay, xe đạp nước, cưỡi ngựa… tuy có thay đổi bộ mặt ảm đạm của
hồ nhưng cũng vì thế làm mất đi nét trầm
mặc huyễn hoặc vốn đã là cái “hồn” của hồ Than Thở.
HỒ XUÂN HƯƠNG
Nằm ngay trung tâm thành phố, ở độ cao
1477m, Hồ Xuân Hương nguyên là thung lũng có dòng suối
Cam Ly chảy qua, nơi quần tụ của các cư
dân Lạch buổi ban đầu. Năm 1919, từ sáng kiến của viên công
sứ Cunhac, kỹ sư công chánh Labbé đã
tiến hành việc ngăn dòng suối làm thành hồ. Đến năm 1923 lại
xây thêm một đập nữa ở phía dưới tạo
thành hai hồ.
Do ảnh hưởng của cơn bão tháng 3 năm
1932, cả hai đập đều bị vỡ. Mãi đến năm 1934-1935 một đập lớn
bằng đá mới được kỹ sư Trần Đăng Khoa
thiết kế xây dựng phía dưới hai đập cũ tạo thành một hồ lớn –
người Pháp gọi là Grand Lac. Đập này nằm
trước Dinh Quản Đạo mà vị Quản đạo bấy giờ là Phạm Khắc
Hòe vẫn được dân địa phương xưng gọi
“ông Đạo” nên khi đập cũng là cầu xây xong, người dân quen gọi
là “Cầu Ông Đạo”, còn tồn tại đến ngày
nay.
Hồ có chu vi 5000m, rộng 25ha với hình
dạng trăng lưỡi liềm. Mặt hồ phẳng lặng như tấm gương soi
bóng những tán tùng già cỗi, những hàng
liễu rũ thướt tha, và sẽ được hơn khi mùa xuân về, lúc những
cành anh đào nở rộ một màu hồng rực rỡ
khiến mặt hồ bừng lên như đôi má cô gái Đà lạt tuổi xuân thì.
Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953
như muốn làm sống mãi hình ảnh lãng mạn của nữ sĩ thơ
Nôm nổi tiếng Việt Nam thế kỷ thứ 19: Hồ
Xuân Hương. HỒ TUYỀN LÂM
Theo quốc lộ 20 lên đèo Prenn, qua khỏi thác
Datanla một đoạn, du khách rẽ trái rồi đi tiếp khoảng 2km
giữa rừng thông trùng điệp, sẽ đối mặt
với một hồ nước mênh mông mà từ lâu đã mang một cái tên đầy ấn
tượng : Tuyền Lâm.
Hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng
suối Tía và thượng nguồn sông Đa Tam từ núi Voi đổ về. Trong
nổ lực tạo nguồn nước dự trữ và tưới
tiêu cho các cánh đồng huyện Đức Trọng, từ năm 1982 Bộ thủy lợi
đã tiến hành việc đắp đập ngăn nước tại
đây. Công trình xây dựng đến năm 1987 mới hoàn thành đã mở
rộng mặt hồ đến 32km2 với độ sâu có nơi
trên 30m nối liền các núi đồi tạo thành một cảnh quan thiên
nhiên hoành tráng
No comments:
Post a Comment